Trang Thông Tin Xuất Nhập Khẩu IMEX NEWS - Trang Thông Tin Xuất Nhập Khẩu IMEX NEWS cung cấp dịch vụ uỷ thác bán hàng Quốc Tế, có cam kết doanh số cho khách hàng. Liên hệ 0982.515.526

06/08/2025

IMEX NEWS và CÔNG VIÊN LOGISTICS VIETTEL LẠNG SƠN ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác chiến lược

Hướng tới xây dựng hệ sinh thái logistics – thương mại xuyên biên giới Việt – Trung Ngày 05/8/2025, tại Công viên Logistics Viettel Post – Lạng Sơn, đã diễn ra lễ ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác (MOU) giữa CÔNG TY TNHH IMEX NEWS và TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN BƯU CHÍNH VIETTEL  – đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ hợp tác chiến lược giữa một đơn vị truyền thông – xúc tiến xuất khẩu hàng đầu và một trung tâm logistics trọng điểm tại khu vực biên giới Việt – Trung.  IMEX NEWS là đơn vị tiên phong hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực xúc tiến xuất nhập khẩu hai chiều Việt – Trung, sở hữu đầy đủ pháp nhân tại Trung Quốc và Việt Nam. Đơn vị hiện đang vận hành hệ thống truyền thông đa nền tảng; trung tâm trưng bày – kết nối thương mại song phương; dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu – nhập khẩu chính ngạch; và đặc biệt là ấn phẩm song ngữ “Kết nối Kinh doanh Việt – Trung”, được phân phối định kỳ tại hội chợ, triển lãm, các kênh thương mại trọng điểm tại Trung Quốc và Việt Nam. Với vai trò là cầu nối thị trường hiệu quả, IMEX NEWS đã hỗ trợ hàng trăm doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, mở rộng phân phối tại thị trường Trung Quốc thông qua hình thức truyền thông, quảng bá, kết nối trực tiếp và vận hành các kênh tiêu thụ thực tế. Đồng thời, IMEX NEWS cũng cung cấp dịch vụ nhập khẩu chính ngạch hàng hóa Trung Quốc phục vụ nhu cầu thị trường Việt Nam. Phát biểu tại buổi lễ, ông Dương Duy Trường – Chủ tịch IMEX NEWS nhấn mạnh: “Việc hai đơn vị chúng ta chính thức ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác hôm nay không chỉ là nghi thức mang tính biểu trưng, mà còn là bước khởi đầu thực chất và có mục tiêu rõ ràng: triển khai hợp tác cụ thể, nhanh chóng, hiệu quả, góp phần kết nối hệ sinh thái logistics và thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.”   Ở chiều ngược lại, Viettel Post là một trong những doanh nghiệp logistics mạnh nhất Việt Nam. Với năng lực vận hành Công viên Logistics Lạng Sơn – trung tâm logistics xuyên biên giới quy mô lớn và hiện đại, Viettel Post có vai trò then chốt trong việc đảm bảo hạ tầng, vận chuyển, lưu trữ và tối ưu chi phí cho chuỗi cung ứng hàng hóa xuất nhập khẩu. Tọa lạc tại vị trí chiến lược cách cửa khẩu Hữu Nghị chỉ 5,4km, Công viên Logistics Viettel – Lạng Sơn được đầu tư với quy mô 58ha, gồm hệ thống kho thường, kho ngoại quan, kho thương mại điện tử, khu sang tải, phòng kiểm nghiệm, khu điều hành liên ngành và văn phòng làm việc. Chỉ sau gần 4 tháng đi vào vận hành, công viên đã tiếp nhận trung bình 180 lượt xe/ngày, với riêng xe xuất khẩu đạt 140 lượt/ngày và thời gian xử lý trung bình dưới 30 phút – chiếm khoảng 50% thị phần cửa khẩu Hữu Nghị. Mục tiêu đến cuối năm 2025 là nâng công suất lên 300 xe/ngày. Ông Lê Hồng Giang – Giám đốc Chi nhánh Viettel Post Lạng Sơn phát biểu: “Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang chuyển dịch nhanh chóng, logistics không còn đơn thuần là hoạt động vận chuyển, mà đã trở thành mắt xích chiến lược trong chuỗi giá trị quốc tế… Việc được đồng hành cùng những đối tác uy tín như IMEX NEWS là minh chứng cho sự sẵn sàng đổi mới, nâng cấp dịch vụ và đầu tư chiều sâu về năng lực vận hành.”   Hai bên cam kết triển khai đồng bộ các hoạt động như: tiếp cận và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu xuất khẩu từ tư vấn, truyền thông đến logistics và kết nối phân phối tại thị trường Trung Quốc; thiết lập khu trưng bày và giao dịch hàng hóa Trung Quốc tại Công viên Logistics Lạng Sơn; phối hợp tổ chức hội nghị, hội thảo chuyên đề; và đồng hành truyền thông – xúc tiến thương hiệu logistics của Viettel qua các kênh quốc tế của IMEX NEWS. IMEX NEWS cam kết: “Mỗi MOU chỉ thực sự có ý nghĩa khi chuyển thành hành động cụ thể, có doanh nghiệp hưởng lợi, có sản phẩm được giao dịch, có dòng hàng được luân chuyển.” Về phía Viettel Post, ông Giang chia sẻ: “Chúng tôi tin rằng, sự phối hợp giữa một doanh nghiệp thương mại dẫn đầu như IMEX NEWS và một đơn vị logistics chủ lực của Tập đoàn Viettel như chúng tôi – sẽ tạo ra những giá trị thực chất, bền vững…” Hợp tác giữa IMEX NEWS và Viettel Post sẽ là điểm tựa cho hàng nghìn doanh nghiệp đang tìm kiếm giải pháp xuất khẩu thuận tiện, hiệu quả, chi phí tối ưu. Với thế mạnh bổ trợ cho nhau – một bên làm truyền thông, xúc tiến và phân phối, một bên vận hành logistics hiện đại, toàn trình – hai đơn vị cam kết đồng hành lâu dài vì mục tiêu: giúp hàng Việt vươn xa, giúp hàng Trung Quốc vào Việt Nam minh bạch, nhanh chóng, tối ưu chi phí cho doanh nghiệp hai nước. 📌 Mọi thông tin chi tiết về hợp tác – mời liên hệ: 📞 Hotline/Zalo/WhatsApp: 0982.515.526 – 0866.865.366 🌐 Website: www.imexnews.vn 📧 Email: export.imexnews@gmail.com 📍 Văn phòng quốc tế: Số 1 Vũ Đức Thận, Long Biên, Hà Nội 📘 Fanpage: www.facebook.com/imexnews
Xem thêm

Tin tức

Thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và ổn định thị trường gạo

Chiều ngày 10/9/2025, tại trụ sở 23 Ngô Quyền, Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và ổn định thị trường gạo. Bộ Công Thương quyết liệt điều hành, tháo gỡ khó khăn xuất khẩu gạo Thủ tướng giao Bộ Công Thương đa dạng hóa thị trường xuất khẩu gạo Xuất khẩu gạo giữ vững vị thế nhưng chịu áp lực giảm giá trị Nhằm kịp thời triển khai Công điện số 160/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và ổn định thị trường gạo, chiều ngày 10/9/2025, tại trụ sở 23 Ngô Quyền, Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và ổn định thị trường gạo. Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì hội nghị. Tham dự hội nghị có đại diện các bộ, ngành: Văn phòng Chính phủ, Nông nghiệp và Môi trường, Tài chính, Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… Đại diện các đơn vị chức năng thuộc Bộ Công Thương. Về phía doanh nghiệp có đại diện Hiệp hội Lương thực Việt Nam; 20 thương nhân xuất khẩu gạo có kim ngạch xuất khẩu gạo lớn nhất trong 8 tháng đầu năm 2025. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chủ trì hội nghị (Ảnh: Cấn Dũng). Thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, ổn định mặt hàng chiến lược Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, gạo là mặt hàng lương thực chủ lực của phần lớn các quốc gia trên thế giới và cũng là mặt hàng có ý nghĩa chiến lược, “sống còn” với hàng chục quốc gia ở các châu lục. Nhất là đối với những nước do điều kiện hoàn cảnh tự nhiên không tự chủ được việc sản xuất lúa gạo, hay những nước có điều kiện chính trị - xã hội khác như chiến tranh. Chính vì vậy, xuất khẩu gạo không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà còn góp phần khẳng định vị thế và hình ảnh một Việt Nam phát triển, có trách nhiệm trong công cuộc giảm nghèo và tích cực góp phần vào việc bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.   Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, gạo không chỉ là một mặt hàng lương thực thiết yếu mà còn mang ý nghĩa chiến lược (Ảnh: Cấn Dũng). Đối với Việt Nam, trước năm 1986, gạo vẫn được coi là mặt hàng chiến lược, là nền tảng; không chỉ đơn thuần là lương thực, mà còn là vấn đề an ninh kinh tế, an ninh chính trị. “Ngày nay, với sản lượng xuất khẩu hàng chục triệu tấn, gạo đã mang về hàng chục tỷ USD mỗi năm, đóng góp lớn cho kim ngạch xuất nhập khẩu và ngân sách quốc gia, đồng thời tạo việc làm, thu nhập cho hàng triệu nông dân” – Bộ trưởng nhấn mạnh. Chính vì vậy, xuất khẩu gạo không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà còn góp phần khẳng định vị thế và hình ảnh một Việt Nam phát triển, đóng góp vào công cuộc giảm nghèo và bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, gần đây một số thị trường gạo xuất khẩu lớn của ta bị thu hẹp vì lý do khách quan, ngày 9/9, Thủ tướng đã ban hành Công điện 160/CĐ-TTg về việc tăng cường thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu và điều tiết thị trường gạo. Nhằm kịp thời triển khai Công điện của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương tổ chức hội nghị để đánh giá, tháo gỡ, góp phần đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc vào một số ít đối tác. Doanh nghiệp kiến nghị các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu gạo (Ảnh: Cấn Dũng). Tại hội nghị, đại diện các hiệp hội, thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo lớn trong ngành đã phản ánh, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu cần được hỗ trợ, tháo gỡ. Từ đó, các đơn vị chức năng của Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan nắm bắt và trao đổi, giải đáp hoặc kịp thời tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết, bảo đảm cân đối hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Các thương vụ Việt Nam tại nước ngoài cũng nêu rõ tiềm năng của một số thị trường mới như Senegal, Bangladesh… để doanh nghiệp tận dụng cơ hội đa dạng hoá thị trường (Ảnh: Cấn Dũng). Đại diện một số thương vụ Việt Nam tại nước ngoài cũng nêu rõ tiềm năng của một số thị trường mới như Senegal, Bangladesh… để doanh nghiệp tận dụng cơ hội đa dạng hoá thị trường trong bối cảnh hiện nay. Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho rằng, mục tiêu xuyên suốt của ngành nông nghiệp là vừa giữ ổn định an ninh lương thực trong nước, vừa duy trì giá trị xuất khẩu khi thị trường lớn đối tác ngừng nhập gạo từ 1/9. Dự kiến giữa tháng 9/2025, vụ hè thu sẽ cơ bản hoàn thành thu hoạch. Theo cơ cấu mùa vụ, vụ thu đông sẽ thu hoạch rộ vào tháng 11 và 12. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu, không để xảy ra tình trạng ùn tắc cục bộ trong giai đoạn lúa thu hoạch tập trung. Lịch thời vụ ở từng vùng sẽ được bám sát để cân đối sản lượng, đồng thời duy trì cơ cấu lúa chất lượng cao, đảm bảo nguồn cung cho cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Thứ trưởng Trần Thanh Nam kiến nghị tăng cường liên kết trong sản xuất. Hiện chương trình 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải tại Đồng bằng sông Cửu Long đang tiếp tục mở rộng. Dự kiến giữa tháng 9 tới, Bộ sẽ tổng kết 11 mô hình lúa chất lượng cao, từ đó nhân rộng ra các vùng sản xuất trọng điểm. Thứ trưởng Trần Thanh Nam phát biểu tại hội nghị (Ảnh: Cấn Dũng). Về cân đối cung - cầu gạo xuất khẩu, Thứ trưởng cho biết gạo Việt Nam đã có mặt tại 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, Australia đánh giá cao chất lượng gạo Việt, cho thấy tiềm năng mở rộng thị trường không chỉ phụ thuộc vào một vài quốc gia truyền thống. Nhiều quốc gia châu Phi cũng tỏ ý quan tâm, mong muốn nhập khẩu gạo Việt Nam thời gian tới. Trên cơ sở đó, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề nghị hệ thống tham tán thương mại tăng cường kết nối, thông tin thị trường tại nước bản địa, để doanh nghiệp trong nước có chiến lược xuất khẩu phù hợp. “Quan trọng là sản xuất phải theo nhu cầu, có liên kết chặt chẽ, giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh. Khi đó, thị trường gạo Việt sẽ vững vàng hơn trước những biến động”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam nhấn mạnh. 5 nhóm nhiệm vụ giải pháp trọng tâm Thống nhất với các ý kiến phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá, trong 8 tháng đầu năm 2025, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương và nỗ lực của doanh nghiệp, ngành lúa gạo Việt Nam đã đạt kết quả rất tích cực. Tính đến nay, chúng ta đã xuất khẩu khoảng 6,3 triệu tấn gạo, tăng 2% so với cùng kỳ. Với kế hoạch cả năm 8 triệu tấn, chỉ trong 2/3 chặng đường, chúng ta đã hoàn thành gần 80% chỉ tiêu và hoàn toàn có khả năng vượt kế hoạch. Đáng chú ý, gạo Việt Nam đã hiện diện tại nhiều thị trường truyền thống và mở rộng sang các thị trường mới như Trung Đông, châu Phi, Tây Á. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ rõ loạt giải pháp tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu gạo (Ảnh: Cấn Dũng). Song Bộ trưởng cũng nhận định, một số thị trường trọng điểm như Indonesia, Philippines tạm dừng nhập khẩu trong thời gian ngắn đã tạo áp lực lên giá và tiêu thụ, song về tổng thể, đầu ra của gạo Việt Nam vẫn được duy trì ổn định và nhu cầu nhập khẩu ở nhiều thị trường sẽ quay trở lại vào dịp cuối năm. Tuy nhiên, Bộ trưởng nhấn mạnh, tuyệt đối không được chủ quan; phải đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hạt gạo Việt, đồng thời củng cố thương hiệu và chất lượng gạo Việt Nam. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã chỉ ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần triển khai trong thời gian tới: Thứ nhất, đối với Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành liên quan: Tiếp tục theo dõi, nắm bắt thông tin, đánh giá tình hình liên quan đến hoạt động dừng nhập khẩu gạo của Philippines, tạm dừng của Indonesia để tham mưu cho Chính phủ có giải pháp phù hợp. Cập nhật tình hình, hướng dẫn, giúp đỡ đối với vùng sản xuất, các doanh nghiệp xuất khẩu về những thay đổi trong chính sách của Philippines và Indonesia để có giải pháp thích ứng. Đồng thời, tích cực cung cấp thông tin, dự báo thị trường, nhất là các thị trường tiềm năng (châu Phi, Trung Đông, Nam Á, Tây Á, Nam Mỹ) để các doanh nghiệp xuất khẩu có dư địa lựa chọn và tiếp cận, tránh lệ thuộc vào một vài thị trường lớn trong dài hạn. Khẩn trương xem xét hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoàn tất thủ tục xuất nhập khẩu một cách nhanh chóng, thuận tiện như áp dụng chuyển đổi số, giảm thời gian và chi phí trong hoạt động thu mua, xuất khẩu gạo. Tăng cường giao thiệp, đàm phán, ký kết mới hoặc nâng cấp các thỏa thuận có sẵn về thương mại gạo với các nước, nhất là những nước, khu vực có nhiều tiềm năng hoặc các nước có FTA với chúng ta. Chú trọng hướng dẫn, giúp đỡ các địa phương trong quy hoạch vùng trồng, áp dụng công nghệ xanh, quy trình sản xuất sạch, xây dựng, quảng bá thương hiệu và truy xuất nguồn gốc, xuất khẩu theo đề án chính ngạch. Đẩy mạnh thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa phát thải thấp, chất lượng cao. Thứ hai, đối với Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước: Nhanh chóng làm thủ tục hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, góp phần giúp doanh nghiệp thu hồi, bổ sung nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh. Đơn giản hóa các thủ tục Hải quan, thông quan, nhất là vào thời điểm các nước nhập khẩu có nhu cầu. Xem xét nâng hạn mức tín dụng và cung cấp vốn kịp thời để doanh nghiệp có thể thu mua, tạm trữ xuất khẩu gạo. Đồng thời, xem xét nâng mức dự trữ quốc gia trong ngắn hạn. Thứ ba, đối với Chính phủ, Quốc hội: Bộ trưởng kiến nghị Chính phủ, Quốc hội sớm xem xét giải quyết các đề xuất, kiến nghị của các hiệp hội, ngành hàng liên quan tới Luật Thuế giá trị gia tăng. Đồng thời, xem xét ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ưu đãi hoặc chính sách hỗ trợ thuê kho bãi (logistics) để doanh nghiệp có điều kiện tăng thu mua, tạm trữ, tìm kiếm thị trường xuất khẩu gạo bền vững. Thứ tư, đối với hiệp hội, ngành hàng: Đề nghị tăng cường cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp hội viên trong các hoạt động xuất khẩu gạo vào các thị trường, nhất là các thị trường tiềm năng, thị trường đang có những thay đổi bất thường cho các doanh nghiệp hội viên.  Cùng với đó, vận động doanh nghiệp hội viên tuân thủ nghiêm các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước trong sản xuất, thu mua, dự trữ và xuất khẩu gạo. Đồng thời, chấp hành tốt các quy định, cơ chế chính sách của nước nhập khẩu gạo để không xảy ra những sự cố đáng tiếc trong các hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam vào các thị trường này. Thứ năm, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo: Cần chú trọng duy trì chất lượng sản phẩm hàng hóa, tiếp tục nghiên cứu thị trường và đáp ứng tối đa các tiêu chuẩn mà nước nhập khẩu đưa ra. Đồng thời, coi trọng việc xây dựng, củng cố và quảng bá thương hiệu gạo Việt Nam trong các thị trường xuất khẩu. Cùng với đó, tiếp tục điều chỉnh để một mặt khai thác tốt các thị trường truyền thống, mặt khác, đẩy mạnh tìm kiếm và tiếp cận, khai thác các thị trường mới còn nhiều tiềm năng (châu Phi, Trung Đông, Tây Á, Nam Á…) nhất là các thị trường mà Chính phủ, các bộ, ngành chức năng đã có thỏa thuận về thương mại gạo. Tiếp tục đẩy mạnh mua vào, tạm trữ (không dừng) để chuẩn bị cho các hợp đồng đã ký để khi các đối tác mua lại, ta có hàng giao ngay. Tăng cường bán hàng sang châu Phi, Bangladesh, Senegal, Trung Đông và các thị trường đang có nhu cầu; đa dạng các chủng loại hàng hóa, các thị trường ngách và thị trường có yêu cầu cao. Cũng tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các cơ quan báo chí truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền về chủ trương của Đảng, Nhà nước về Đề án phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp; các cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc khuyến khích sản xuất xanh, củng cố và quảng bá thương hiệu sản phẩm. Những nỗ lực của các cấp, ngành, cộng đồng doanh nghiệp trong các hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, xuất khẩu gạo nói riêng; tránh đưa tin thiếu kiểm chứng, bất lợi cho quá trình đàm phán hoặc xử lý tranh chấp của ta với đối tác.
Xem thêm

Muốn xuất khẩu, phải bắt đầu từ vùng nguyên liệu

Xuất khẩu nông sản không bắt đầu từ bao bì hay marketing, mà từ vùng nguyên liệu đạt chuẩn, yếu tố cốt lõi quyết định khả năng chinh phục thị trường toàn cầu. Trong hơn một thập kỷ trở lại đây, xuất khẩu nông sản đã trở thành một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Thế nhưng, để nông sản Việt có thể trụ vững và mở rộng tại các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU hay Hoa Kỳ, không chỉ cần sản phẩm chất lượng, bao bì đẹp, hay chiến lược marketing hiệu quả. Điều kiện tiên quyết và cũng là điểm yếu cố hữu của nông nghiệp Việt chính là thiếu vùng nguyên liệu tập trung, ổn định, đạt chuẩn quốc tế. Tại Thái Nguyên, một trong những mô hình tiêu biểu là Hợp tác xã nông sản Phú Lương (xã Ngọc Thành), từ một cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, Hợp tác xã đã từng bước xây dựng vùng nguyên liệu chè và lúa chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn VietGAP, hướng hữu cơ và được công nhận OCOP 5 sao cấp quốc gia. Câu chuyện từ Hợp tác xã Phú Lương cho thấy, xuất khẩu không bắt đầu từ bao bì, tiếp thị hay truyền thông mà bắt đầu từ đất, từ người nông dân và từ những vùng nguyên liệu được chăm chút từng bước một. Báo Công Thương đã có buổi trao đổi với ông Tống Văn Viện, Chủ tịch kiêm Giám đốc Hợp tác xã nông sản Phú Lương (xã Ngọc Thành, tỉnh Thái Nguyên) để hiểu hơn về vấn đề này. Ông Tống Văn Viện, Chủ tịch kiêm Giám đốc Hợp tác xã nông sản Phú Lương (xã Ngọc Thành, tỉnh Thái Nguyên). Ảnh: NVCC Nền tảng cho giấc mơ xuất khẩu - Trong hành trình chuẩn bị cho xuất khẩu, giá trị lớn nhất mà chương trình OCOP mang lại cho các hợp tác xã, doanh nghiệp địa phương là gì? Ông Tống Văn Viện: Thực tế cho thấy, chương trình OCOP không chỉ là cơ hội để các hợp tác xã nâng hạng sản phẩm, mà còn là đòn bẩy để chuẩn hóa toàn bộ chuỗi giá trị từ vùng nguyên liệu đến chất lượng, bao bì và thị trường. OCOP cũng là cầu nối giúp hợp tác xã tiếp cận thêm nhiều chương trình hỗ trợ từ các ban, ngành, đoàn thể, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng quy mô, quảng bá, đưa sản phẩm ra thị trường rộng hơn. Đặc biệt, nhờ vào những chuyển biến tích cực từ chương trình, doanh thu của hợp tác xã đã tăng lên rõ rệt. Điều này giúp chúng tôi có nguồn lực để đầu tư vào vùng nguyên liệu, mở rộng vùng trồng, nâng cấp trang thiết bị và máy móc qua đó củng cố chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu một cách bền vững, tạo nền tảng vững chắc cho mục tiêu xuất khẩu trong tương lai. - Đâu là thách thức lớn nhất mà hợp tác xã đang đối mặt, là tiêu chuẩn kỹ thuật, năng lực sản xuất hay bài toán xây dựng thương hiệu bản địa để phù hợp với thị hiếu toàn cầu, thưa ông? Ông Tống Văn Viện: Thời gian vừa qua, chúng tôi đã bắt đầu xuất khẩu sản phẩm sang thị trường Nhật Bản và hiện đang từng bước phát triển các dòng sản phẩm phù hợp với thị trường này. Hiện tại, chúng tôi đặt mục tiêu mở rộng thị trường xuất khẩu. Do đó, hợp tác xã đang tích cực tìm hiểu và nghiên cứu các tiêu chuẩn của thị trường Mỹ, châu Âu và một số quốc gia khác. Việc này nhằm đảm bảo khả năng đáp ứng từ vùng nguyên liệu, quy trình sản xuất, nhà máy chế biến cho đến bao bì, nhãn mác và hồ sơ tài liệu, tất cả đều phải phù hợp với yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu cụ thể. - Thưa ông, yếu tố then chốt nào để chuyển những lợi thế địa phương như vùng nguyên liệu, sự đồng lòng của người dân, hay hỗ trợ từ chính quyền… thành năng lực cạnh tranh thực sự trên thị trường quốc tế? Ông Tống Văn Viện: Nhìn từ câu chuyện phát triển của chúng tôi, có thể thấy rõ, yếu tố then chốt để chuyển hóa các lợi thế sẵn có của địa phương thành năng lực cạnh tranh thực sự trên thị trường quốc tế chính là tư duy tổ chức sản xuất bài bản và định hướng thị trường rõ ràng. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng sự chủ động trong tổ chức sản xuất, các vùng nguyên liệu đạt chuẩn của chúng tôi hoàn toàn có thể phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu quy mô lớn. Tuy nhiên, nếu không có quy trình quản lý chặt chẽ, không ứng dụng khoa học công nghệ và không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, thì những lợi thế này khó có thể chuyển hóa thành lợi ích thực tế trên thị trường toàn cầu. Bên cạnh trà, vùng đất Thái Nguyên cũng rất phù hợp để phát triển các giống lúa chất lượng cao. Khi được chế biến sâu thành các sản phẩm như bún khô, phở khô…, giá trị của hạt gạo lại càng được nâng tầm. Đây chính là cách chúng tôi tạo ra giá trị gia tăng từ lợi thế bản địa bằng cách chuyển từ tư duy sản phẩm sang tư duy chuỗi giá trị. Đặc biệt, một yếu tố quan trọng không kém là sự đồng lòng của người dân địa phương. Khi người dân cùng đồng hành trong xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, cùng đầu tư vào nhà xưởng và cơ sở chế biến, thì năng lực sản xuất quy mô lớn mới có thể vận hành bền vững. - Hiện khó khăn lớn nhất để đưa các sản phẩm OCOP vươn ra thế giới là gì, thưa ông? Ông Tống Văn Viện: Hiện nay, câu chuyện không chỉ nằm ở tiêu chuẩn chất lượng hay bao bì sản phẩm, mà vấn đề lớn hơn là việc tiếp cận và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt, đối với mục tiêu xuất khẩu vốn đòi hỏi giá trị lớn thì điều kiện tiên quyết là phải có vùng nguyên liệu đủ rộng, ổn định và đạt chuẩn. Trong nông nghiệp, vùng nguyên liệu đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Chúng tôi rất mong nhận được sự đồng hành từ các ban, ngành, đoàn thể trong việc xây dựng vùng nguyên liệu, phát triển sản xuất. Với phương châm của hợp tác xã là cùng bà con nhân dân làm giàu trên chính mảnh đất quê hương mình, chúng tôi mong muốn có thêm nguồn lực để đưa kỹ thuật, kiến thức, thông tin hữu ích đến với người dân, từ đó xây dựng được những vùng nguyên liệu mới, tạo ra sản phẩm đạt chất lượng, đáp ứng được yêu cầu cả về thị trường và tài chính. Từ "hương quê" đến thương hiệu toàn cầu - Theo ông, để một sản phẩm OCOP có thể tồn tại lâu dài và vươn ra thị trường xuất khẩu, đặc biệt trong bối cảnh yêu cầu về vùng nguyên liệu ngày càng khắt khe phụ thuộc vào yếu tố nào? Ông Tống Văn Viện: Về hệ sinh thái nông nghiệp hiện nay, dưới góc độ cá nhân cũng như vai trò là người đứng đầu hợp tác xã, chúng tôi luôn sẵn sàng đồng hành để thúc đẩy phát triển nền nông nghiệp bền vững và lâu dài. Theo tôi, điều quan trọng nhất hiện nay không phải là kỹ thuật hay vốn đầu tư, mà chính là nhận thức và định hướng đúng đắn. Chúng tôi mong muốn góp phần giúp bà con nhân dân hiểu rõ xu thế phát triển nông nghiệp hiện đại, từ đó cùng đồng hành xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng đúng tiêu chuẩn để sản xuất quy mô lớn, ổn định. Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu cần gắn với câu chuyện của sản phẩm, đặc biệt là những đặc sản mang tính bản địa, vùng miền. Những câu chuyện ấy không chỉ giúp gia tăng giá trị cảm xúc mà còn tạo nên sự khác biệt và sức cạnh tranh khi đưa sản phẩm ra thị trường trong nước và quốc tế. Với tâm thế của người làm nông nghiệp gắn bó lâu dài, tôi tin rằng, bắt đầu từ chất lượng, đồng hành với câu chuyện thương hiệu, thì sản phẩm mới có thể sống lâu, phát triển bền vững và vươn xa trên thị trường. - Trong quá trình xây dựng thương hiệu, ông có chú trọng đến việc định vị cảm xúc với người tiêu dùng không, tức là tạo nên sự kết nối vượt ra ngoài chất lượng, để sản phẩm thực sự chạm tới giá trị tinh thần và bản sắc văn hóa địa phương? Ông Tống Văn Viện: Hiện tại, chúng tôi đã và đang áp dụng phương thức phát triển sản phẩm gắn liền với câu chuyện thương hiệu và giá trị bản địa. Thương hiệu của hợp tác xã đã được gây dựng và duy trì trong suốt 18 năm qua trên thị trường, và đến nay đã được đăng ký bảo hộ thương hiệu. Chúng tôi xác định rõ rằng, thương hiệu không chỉ là tên gọi, mà còn là cam kết về chất lượng và uy tín với người tiêu dùng. Hiện nay, chúng tôi đang sử dụng hai dòng thương hiệu chính: “Trà Hương Quê - Tinh túy Trà Việt” và “Nông sản Hương Quê - Tinh tuý nông sản Việt”. Mỗi thương hiệu đều gắn với một câu chuyện riêng, phản ánh đặc trưng vùng miền cũng như khát vọng phát triển nông nghiệp bền vững từ chính mảnh đất quê hương. - Yếu tố cốt lõi nào để thương hiệu giữ vững được “hồn cốt” bản địa mà vẫn không ngừng đổi mới để thích nghi với thị trường hiện đại, đặc biệt là thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn khắt khe? Theo quan điểm cá nhân tôi, để một câu chuyện sản phẩm có thể chạm đến trái tim người tiêu dùng và lan tỏa giá trị bền vững, điều quan trọng nhất chính là sự chân thành. Mỗi câu chuyện đều cần có "hồn" và "hồn" ấy chỉ có thể được thổi vào khi người kể thực sự trung thực và gắn bó với sản phẩm của mình. Nếu một con người không có sự chân thành, thì những gì họ kể, dù trau chuốt đến đâu cũng sẽ thiếu sức sống, thiếu chiều sâu, và không thể truyền cảm hứng. Câu chuyện thương hiệu khi đó sẽ không còn là một công cụ kết nối sản phẩm với người tiêu dùng, mà chỉ là một lớp vỏ rỗng. Với tôi, câu chuyện sản phẩm không chỉ để kể cho người tiêu dùng nghe, mà còn là để chính bản thân mình, các thành viên trong hợp tác xã và bà con nhân dân cùng tin vào, cùng tự hào và cùng gìn giữ. Đó là cách để phát triển sản phẩm một cách thực chất, bền vững và nhân văn. Xin cảm ơn ông! Hợp tác xã nông sản Phú Lương (xã Ngọc Thành, tỉnh Thái Nguyên) là mô hình tiêu biểu trong xây dựng chuỗi giá trị nông sản gắn với vùng nguyên liệu đạt chuẩn và nông nghiệp tuần hoàn. Hợp tác xã không chỉ là nơi cung ứng trà và lúa chất lượng cao mà còn là đơn vị sở hữu loạt sản phẩm OCOP nổi bật, trong đó có sản phẩm đạt 5 sao cấp Trung ương.
Xem thêm

Giá lúa gạo hôm nay ngày 12/9: Lúa tươi, gạo xuất khẩu giảm mạnh

Giá lúa gạo hôm nay ngày 12/9 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ít biến động. Thị trường giá gạo trong nước ổn định, một số loại gạo xuất khẩu và lúa tươi giảm mạnh. Giá lúa gạo hôm nay ngày 12/9/2025 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận nhiều biến động. Trong đó với mặt hàng gạo, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, hiện gạo nguyên liệu xuất khẩu OM 380 dao động ở mức 7.450 - 7.550 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 18 dao động ở mức 8.500 - 8.600 đồng/kg; gạo nguyên liệu xuất khẩu IR 504 dao động ở mức 7.700 - 7.850 đồng/kg; gạo nguyên liệu xuất khẩu CL 555 dao động ở mức 7.750 - 7.900 đồng/kg; gạo nguyên liệu xuất khẩu OM 5451 dao động ở mức 7.700 - 7.900 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở 8.800 - 9.000 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 dao động ở 9.500 - 9.700 đồng/kg. Giá lúa gạo hôm nay ngày 12/9: Lúa tươi và gạo xuất khẩu giảm mạnh. Ảnh: Thanh Minh. Với phụ phẩm, giá các mặt hàng phụ phẩm dao động khoảng từ 7.200 - 9.000 đồng/kg. Hiện tấm OM 504 giảm 100 đồng/kg dao động ở mức 7.200 - 7.400 đồng/kg; giá cám dao động ở mức 8.000 - 9.000 đồng/kg so với hôm qua. Ghi nhận tại các địa phương hôm nay, giao dịch mua bán vẫn chậm do đầu ra còn chậm; chủng loại IR50404/OM380, nguồn cung ít, giá vững. Tại An Giang, giao dịch mua bán ít, giá ổn định. Tại khu vực Lấp Vò (Đồng Tháp), kho mua vẫn chậm, giá vững. Tại khu vực Sa Đéc (Đồng Tháp), lượng gạo về lai rai, kho mua chậm, giá ổn định. Kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp), về lượng ít, giá vững. Tại An Cư - Đồng Tháp, gạo về có lượng lai rai, giao dịch lượng ít, giá kho lớn mua ổn định. Tại các chợ lẻ, giá gạo các loại giá đi ngang so với hôm qua. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 28.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thường dao động ở mốc 13.000 - 14.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài dao động ở mức 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa ở mốc 21.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine dao động ở mức 16.000 - 18.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng ở mốc 16.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 16.000 - 17.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg. Với mặt hàng lúa, theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, hiện gia lúa IR 50404 (tươi) giảm 300 đồng/kg dao động ở mức 5.000 - 5.100 đồng/kg; giá lúa OM 18 (tươi) giảm 200 đồng/kg dao động ở mốc 5.600 - 5.800đồng/kg; giá lúa Đài Thơm 8 (tươi) giảm 200 đồng/kg dao động ở mốc 5.700 - 5.800 đồng/kg; giá lúa OM 5451 (tươi) dao động mốc 5.900 - 6.000 đồng/kggiá lúa Nàng Hoa 9 dao động ở mức 6.000 - 6.200 đồng/kg; giá lúa (tươi) OM 308 dao động ở mức 5.700 - 5.900 đồng/kg so với cuối tuần. Ghi nhận tại nhiều địa phương hôm nay, bạn hàng mua cầm chừng do đầu ra còn chậm, giá ít biến động. Tại Đồng Tháp, giao dịch lúa Thu Đông lai rai, giá lúa các loại ít biến động. Tại Vĩnh Long, lúa tươi các loại giá ít biến động, bạn hàng mua chậm.  Tại An Giang, giao dịch lúa Thu Đông cầm chừng, thương lái hỏi mua ít, giá ổn định. Tại Cần Thơ, nông dân chào giá lúa Thu Đông cao, nhưng giao dịch ít. Tại Cà Mau, bạn hàng mua mới lúa Thu Đông ít, giá tương đối ổn định. Tại Tây Ninh (Long An cũ), giao dịch mua bán mới cầm chừng, giá ít biến động. Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh so với hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện gạo thơm 5% tấm giá dao động ở mức 450 - 455 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 367; gạo 100% tấm dao động ở mức 319 - 323 USD/tấn; gạo Jasmine giá dao động 494 - 498 USD/tấn (giảm 38 USD/tấn); Bảng giá lúa gạo hôm nay ngày 12/9/2025 Bảng giá mang tính tham khảo.
Xem thêm

Sắp xếp bộ máy phù hợp với mô hình chính quyền 2 cấp là dấu mốc quan trọng của ngành Thuế

Đó là khẳng định của Cục trưởng Cục Thuế Mai Xuân Thành tại hội nghị trực tuyến Công bố các Quyết định về tổ chức, cán bộ được Cục Thuế tổ chức vào ngày 1/7 Cục trưởng Mai Xuân Thành: sắp xếp tổ chức bộ máy mô hình chính quyền địa phương 2 cấp là dấu mốc quan trọng của ngành Thuế Theo Quyết định số 2229/QĐ-BTC của Bộ Tài chính sửa đổi Quyết định số 381/QĐ-BTC quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Cục Thuế, kể từ ngày 1/7/2025 Cục Thuế có 12 đơn vị tại Trung ương bao gồm: Văn phòng; Ban Chính sách, thuế quốc tế; Ban Pháp chế; Ban Nghiệp vụ thuế; Ban Dự toán, thống kê thuế; Ban Quản lý tuân thủ và hỗ trợ người nộp thuế; Ban Công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa; Ban Kiểm tra; Ban Tổ chức cán bộ; Ban Tài vụ, quản trị; Chi cục Thuế doanh nghiệp lớn; Chi cục Thuế thương mại điện tử. Các đơn vị quy định tại Khoản 1 Điều này là các tổ chức hành chính giúp Cục trưởng Cục Thuế thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Trong đó, Văn phòng, Ban Công nghệ, chuyển đổi số và tự động hóa có tư cách pháp nhân, con dấu riêng và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật. Chi cục Thuế doanh nghiệp lớn; Chi cục Thuế thương mại điện tử có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được cấp mã cơ quan quản lý thu và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật. Chi cục Thuế doanh nghiệp lớn; Chi cục Thuế thương mại điện tử mỗi đơn vị đều có 5 phòng. Toàn cảnh hội nghị công bố quyết định Đối với Thuế tỉnh, TP được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp tỉnh. Trụ sở chính của Thuế tỉnh, TP được đặt tại trung tâm chính trị - hành chính của đơn vị hành chính cấp tỉnh. Thuế tỉnh, TP có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được cấp mã cơ quan quản lý thu và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật. Thuế tỉnh, TP được tổ chức chỉ có không quá 10 phòng. Thuế cơ sở thuộc Thuế tỉnh, TP, quản lý địa bàn bao gồm một số xã, phường, đặc khu. Thuế cơ sở có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được cấp mã cơ quan quản lý thu và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật. Số lượng Thuế cơ sở không quá 350 đơn vị. Cục trưởng Cục Thuế có trách nhiệm quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị thuế thuộc thẩm quyền quản lý theo phân công, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Phát biểu tại hội nghị, Cục trưởng Mai Xuân Thành nhấn mạnh: việc tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy cơ quan thuế phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp là dấu mốc quan trọng của ngành Thuế, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan thuế các cấp, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp. Để tổ chức bộ máy mới đồng bộ theo mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động trơn tru, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả ngay từ ngày 1/7/2025, Cục trưởng Mai Xuân Thành yêu cầu các đồng chí Trưởng Thuế tỉnh, TP, khẩn trương bắt tay ngay vào công việc, tiếp cận địa bàn và đặc biệt là triển khai thực hiện công tác tham mưu, phối hợp với chính quyền cấp tỉnh, TP, chính quyền cơ sở trên địa bàn, đảm bảo chặt chẽ, nhịp nhàng, hiệu quả tạo tiền đề quan trọng cho việc hoàn thành tốt các nhiệm vụ công tác quản lý thuế trên địa bàn. Căn cứ nhiệm vụ, quy mô, số lượng người nộp thuế, địa bàn quản lý; điều kiện về trụ sở, cơ sở vật chất, trang thiết bị, các đơn vị cần chủ động tổ chức, bố trí, sắp xếp các phòng tham mưu; phòng quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp; phòng kiểm tra phù hợp tại các trụ sở, địa điểm làm việc hiện có trong giai đoạn đầu sắp xếp tổ chức bộ máy theo đúng quy định và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền, bảo đảm công tác quản lý thuế và giải quyết công việc, thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp được thông suốt, thuận lợi, không bị gián đoạn trong quá trình chuyển đổi. Cơ quan thuế các cấp cần kiện toàn nhân sự, thực hiện phân công, phân nhiệm rõ ràng trong ban lãnh đạo, chỉ đạo các bộ phận chức năng phối hợp nhịp nhàng trong triển khai công việc. Bố trí cán bộ, công chức thường trực 24/7 để kịp thời tiếp nhận, giải đáp, hỗ trợ các khó khăn, vướng mắc, phản ánh, kiến nghị của người nộp thuế trong thời gian chuyển đổi. Bố trí, sắp xếp cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, nhà, đất đảm bảo đáp ứng yêu cầu công việc, đồng thời làm tốt công tác chính trị, tư tưởng để mỗi công chức thuế phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động thích ứng với sự thay đổi, thực hiện đúng vai trò, nhiệm vụ được phân công. Cơ quan thuế các cấp cần tập trung phục vụ người dân, doanh nghiệp, chuyển đổi một cách thực chất từ trạng thái quản lý sang phục vụ, hỗ trợ người nộp thuế. Tiếp tục rà soát, đẩy mạnh cải cách TTHC, cung cấp TTHC trên môi trường điện tử, phấn đấu hoàn thành mục tiêu 100% TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Đảm bảo hạ tầng CNTT phục vụ người dân, doanh nghiệp hoạt động trơn tru, thông suốt. Cục Thuế đang xây dựng ứng dụng khảo sát, đánh giá về chất lượng, thái độ phục vụ của công chức thuế đối với từng thủ tục hành chính cũng như trong suốt quá trình quản lý thuế. Kết quả chấm điểm là thước đo quan trọng để đánh giá cán bộ công chức, xem xét, bố trí vị trí việc làm, quy hoạch, bổ nhiệm và định hướng công tác đào tạo, bồi dưỡng. Triển khai thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ chuyên môn và công tác thu ngân sách trên địa bàn. Hoàn tất việc rà soát, chuẩn hóa thông tin danh bạ người nộp thuế để xác định dự toán thu năm 2025 phù hợp và lập dự toán thu năm 2026 theo đúng quy định. Khẩn trương rà soát, giao nhiệm vụ thu ngân sách tới từng Phòng, từng Thuế cơ sở, từng công chức thuế theo chỉ tiêu được giao. Theo sát tình hình kinh tế trong nước và trên địa bàn để phân tích, dự báo nguồn thu. Triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp quản lý thu, chống thất thu, thu hồi nợ đọng thuế, đảm bảo mỗi đồng thuế phải được thu đúng, thu đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nước, toàn ngành phấn đấu hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chuyên đề chống thất thu đối với các ngành nghề, lĩnh vực có rủi ro cao, đặc biệt trong quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, thương mại điện tử, giao dịch liên kết, phòng, chống gian lận về hóa đơn và hoàn thuế. Các Ban, đơn vị của Cục Thuế cần đẩy nhanh tiến độ Đề án tái thiết kế quy trình nghiệp vụ, đề án tái cấu trúc hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng theo mô hình tổ chức mới, thật sự hiện đại, thông minh, an toàn và hiệu quả. Nâng cấp, hoàn thiện các dịch vụ thuế điện tử thuận tiện, minh bạch, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Cục trưởng Mai Xuân Thành cũng lưu ý, khối lượng công việc thời gian tới là rất lớn. Do đó, toàn thể cán bộ công chức trong ngành cần phát huy tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, đồng lòng ủng hộ và hỗ trợ các đồng chí lãnh đạo các cấp mới được bổ nhiệm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Xem thêm

Logistics xanh: Xu hướng phát triển bền vững cho doanh nghiệp xuất khẩu

Logistics xanh là xu hướng không thể đảo ngược, đây cũng là chìa khoá để nâng cao sức cạnh tranh, phát triển bền vững cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Sáng ngày 5/9/2025, trong khuôn khổ Viet Nam International Sourcing 2025 và Diễn đàn xuất khẩu 2025 với chủ đề “Kết nối chuỗi cung ứng hàng hóa quốc tế”, Hội thảo chuyên đề: “Logistics xanh - xu hướng phát triển bền vững cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu” đã chính thức diễn ra. Sự kiện do Vụ Phát triển Thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương) phối hợp cùng Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) tổ chức. Toàn cảnh Hội thảo chuyên đề “Logistics xanh – xu hướng phát triển bền vững cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu". Logistics xanh - chìa khoá nâng cao sức cạnh tranh Phát biểu khai mạc, ông Trần Phú Lữ, Giám đốc ITPC, khẳng định: Hiện nay phát triển logistics xanh là xu hướng tất yếu và là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển bền vững của toàn ngành logistics. Khi các doanh nghiệp ứng dụng logistics xanh trong chiến lược của mình, về lâu dài, sẽ gia tăng được số lượng khách hàng, tăng được nguồn thu và cắt giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh. Logistics xanh ngày càng được Chính phủ và các doanh nghiệp tập trung quan tâm, đầu tư một cách chuyên nghiệp, thể hiện qua việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là một loạt hệ thống đường cao tốc trọng điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vận tải tại Việt Nam tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển. Hệ thống cảng biển cũng ngày càng được cải thiện, được chú trọng đầu tư, cải tiến liên tục, tiếp cận những dịch vụ vận tải tiên tiến, hiện đại và thân thiện môi trường hơn.  Song song đó, hiện nay các doanh nghiệp logistics Việt Nam đang chủ động đổi mới phương thức vận hành, mở rộng hợp tác quốc tế và tận dụng công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này phản ánh bước chuyển tích cực của ngành logistics trong việc thích ứng với bối cảnh toàn cầu và yêu cầu ngày càng cao từ thị trường xuất khẩu. Ông Trần Phú Lữ, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC). Riêng đối với các doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư phát triển logistics xanh, thậm chí đã xác định mục tiêu phát triển logistics xanh trong chiến lược của doanh nghiệp, cần thường xuyên cập nhật nội dung chiến lược và tình hình thực hiện phát triển logistics xanh để có điều chỉnh đúng với thực tiễn. Doanh nghiệp cần phải cải thiện chất lượng vận tải bằng việc thay thế các phương tiện vận tải cũ, sử dụng các phương tiện vận tải mới, thân thiện với môi trường; cần tối ưu hóa kho bãi bằng sử dụng công nghệ GPS quản lý thông tin và định vị trong vận tải; tăng cường phát triển công nghệ lạnh trong quản lý kho bãi nhằm giải quyết các vấn đề kỹ thuật và thiết bị liên quan đến bảo quản nhiệt, lạnh và tiết kiệm năng lượng cho hệ thống kho bãi. Ông Trần Phú Lữ cũng cho biết, để tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động logistics xanh, Chính phủ cần xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics tại địa phương hiệu quả, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, tạo điều kiện cho doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước, phát triển thị trường, đào tạo, tiếp cận thông tin. Ngoài ra để duy trì khả năng cạnh tranh, cần bố trí ngân sách hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật cho phát triển dịch vụ logistics xanh, hoàn thiện cơ cấu hạ tầng logistics xanh, tiến hành đầu tư, nâng cấp, quy hoạch hệ thống kho bãi phù hợp. Logistics xanh trở thành một 'giấy thông hành' thương mại Theo ông Trương Tấn Lộc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Logistics TP. Hồ Chí Minh (HLA), cho biết Việt Nam, dù đã xếp hạng 43/139 về chỉ số hiệu quả logistics (LPI), vẫn còn đối mặt với những điểm yếu cố hữu về chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ, dẫn đến lãng phí và phát thải carbon không cần thiết. Ông Trương Tấn Lộc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Logistics TP. Hồ Chí Minh (HLA) Phân tích sâu về các rào cản quốc tế, ông Trương Tấn Lộc chỉ rõ áp lực từ Liên minh châu Âu (EU) đang thiết lập lại các quy chuẩn mới. Cụ thể là cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), sẽ có hiệu lực đầy đủ từ năm 2026, hoạt động như một loại thuế carbon áp lên hàng hóa nhập khẩu vào EU. Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải mua và nộp “chứng chỉ CBAM” tương ứng với lượng phát thải carbon trong sản phẩm. Song song đó, chỉ thị về thẩm định tính bền vững của doanh nghiệp (CSDDD) buộc các công ty phải chịu trách nhiệm về các tác động tiêu cực đến môi trường trong toàn bộ chuỗi cung ứng và áp dụng các tiêu chuẩn ESG (môi trường - xã hội - quản trị) một cách nghiêm ngặt. Ông Trương Tấn Lộc cho rằng, những quy định như CBAM và CSDDD đang tái định giá carbon trên quy mô toàn cầu. Điều này có nghĩa là, logistics xanh không còn là câu chuyện về trách nhiệm xã hội, mà đã trở thành một 'giấy thông hành' thương mại. Tuân thủ là điều kiện cần để không bị phạt hoặc bị cấm xuất khẩu. Tuy vậy, ở góc độ rộng hơn, việc xây dựng một chuỗi cung ứng minh bạch, bền vững với lượng phát thải thấp chính là điều kiện đủ để các nhà mua hàng quốc tế lựa chọn các doanh nghiệp Việt Nam. Dữ liệu logistics xanh sẽ trở thành một chỉ số hiệu suất, trực tiếp nâng cao giá trị thương hiệu và năng lực đàm phán của doanh nghiệp Việt. Ông Lộc cũng đưa ra những ví dụ thực tiễn sinh động ở trong nước. Cụ thể, tại Cảng Tân cảng Cát Lái đã giảm thời gian giao nhận từ vài tiếng xuống chỉ còn 15-20 phút nhờ áp dụng 100% giao dịch qua ePort, đồng thời tiết kiệm 1,5 đến 2 triệu USD chi phí nhiên liệu mỗi năm và giảm đáng kể khí thải CO2 nhờ hệ thống cẩu bờ và cẩu bãi chạy hoàn toàn bằng điện. Tương tự, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong tối ưu hóa lộ trình có thể giúp giảm 15% lượng nhiên liệu tiêu thụ và 25% thời gian giao hàng. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay là sự phụ thuộc quá lớn vào đường bộ và bài toán kết nối hạ tầng logistics còn nhiều bất cập. Để giải quyết vấn đề này, Hiệp hội Logistics TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra một loạt kiến nghị - đề xuất chiến lược. Rút ngắn thời gian thông quan xuống chỉ 1 đến 3 giây Tại Hội thảo, ông Bùi Tuấn Hải, Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Khu vực II, khẳng định: trước áp lực khổng lồ từ lưu lượng giao thương quốc tế ngày càng tăng, ngành Hải quan đã thực hiện một cuộc cách mạng số hóa toàn diện. Ông Hải đã điểm lại những cột mốc đột phá trong quá trình chuyển đổi số của ngành, nhấn mạnh rằng các phương thức quản lý truyền thống đã bộc lộ nhiều hạn chế. Ông Bùi Tuấn Hải, Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Khu vực II. Để giải quyết vấn đề này, một hệ sinh thái các ứng dụng công nghệ thông tin đã được xây dựng và trở thành nền tảng cốt lõi cho hoạt động thông quan hiện đại. Cụ thể, Hệ thống VNACCS/VCIS được xem là “xương sống” của ngành từ năm 2014, đã thay đổi hoàn toàn phương thức làm việc từ thủ công sang tự động hóa. Lợi ích lớn nhất là thời gian thông quan đối với hàng hóa luồng xanh chỉ còn từ 1 đến 3 giây, giúp đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa.  Bên cạnh đó, cơ chế một cửa quốc gia và ASEAN là minh chứng cho sự chuyển mình mạnh mẽ theo hướng kết nối, cho phép doanh nghiệp chỉ cần nộp một bộ hồ sơ điện tử duy nhất cho mọi thủ tục. Đặc biệt, cơ chế một cửa ASEAN còn cho phép trao đổi Chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu D điện tử, loại bỏ hoàn toàn việc gửi bản cứng. Một cấu phần không thể thiếu khác là Hệ thống nộp thuế điện tử 24/7, cho phép doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế mọi lúc, mọi nơi, bất kể ngày nghỉ hay lễ, Tết, giúp hàng hóa được thông quan ngay khi hệ thống xác nhận hoàn thành nghĩa vụ tài chính. Mảnh ghép cuối cùng hoàn thiện bức tranh này là Hệ thống giám sát hải quan tự động (VASSCM), kết nối cơ quan Hải quan với các doanh nghiệp kinh doanh cảng, kho bãi để theo dõi toàn bộ quá trình hàng hóa ra vào một cách minh bạch, loại bỏ thủ tục xác nhận thủ công và giảm thiểu thời gian chờ đợi tại cổng cảng. Hướng tới mục tiêu xây dựng “Hải quan số, Hải quan thông minh” vào năm 2030, Chi cục Hải quan Khu vực II sẽ tích cực tham gia triển khai các công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), và chuỗi khối (Blockchain) vào hoạt động nghiệp vụ. Ông Hải dẫn chứng, Hải quan tại Bahamas, nhờ ứng dụng công cụ phân tích AI, từ năm 2020 đến nay, đã phát hiện và thu hồi hơn 115 triệu USD tiền thuế gian lận. Ngoài ra, một nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp ứng dụng AI trong quản lý chuỗi cung ứng đã giảm được 15% chi phí logistics, cải thiện 35% mức tồn kho và tăng 65% mức độ dịch vụ; những lợi ích này có tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thương mại và quản lý hải quan. Để khai thác tối đa lợi ích từ hệ sinh thái số, ông Hải nhấn mạnh rằng doanh nghiệp không thể tiếp cận một cách bị động mà phải đóng vai trò tiên phong. Doanh nghiệp cần chủ động cập nhật các quy định pháp luật thường xuyên thay đổi để tránh sai sót và chi phí phạt. Song song đó, việc chuẩn bị hồ sơ chính xác ngay từ đầu là vô cùng quan trọng vì trong môi trường số, một sai sót nhỏ cũng có thể khiến hệ thống từ chối tờ khai. Hơn nữa, doanh nghiệp phải chú trọng đào tạo đội ngũ nhân sự để có đủ kiến thức và kỹ năng vận hành các hệ thống điện tử hiện đại một cách thành thạo. Cuối cùng, việc phối hợp chặt chẽ và chủ động liên hệ với cơ quan Hải quan khi có vướng mắc sẽ giúp giải quyết vấn đề nhanh chóng và xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy. Trong những năm qua, ngành logistics Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ bình quân từ 14 - 16% một năm. Số lượng các doanh nghiệp và chất lượng kinh doanh dịch vụ logistics ngày càng tăng. Chỉ số hiệu quả logistics của Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 43/139 toàn cầu và thứ 5 trong khối ASEAN. Quy mô thị trường logistics hiện đạt khoảng 45-50 tỷ USD. Cùng với đó, việc phát triển các trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan và vận tải đa phương thức đang đóng vai trò hỗ trợ hiệu quả cho các ngành xuất khẩu chủ lực như điện tử, dệt may, nông - thủy sản.
Xem thêm

Xóa bỏ độc quyền: Bước ngoặt lớn trên thị trường vàng

Xóa bỏ độc quyền sản xuất vàng miếng được kỳ vọng tạo chuyển biến lớn cho thị trường trong nước, đồng thời tăng minh bạch và hội nhập quốc tế. Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân xung quanh vấn đề này. Cạnh tranh lành mạnh, giá vàng sát giá quốc tế Thưa ông, việc Nhà nước xóa bỏ cơ chế độc quyền sản xuất vàng miếng có ý nghĩa như thế nào đối với thị trường vàng Việt Nam? PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng: Đây là một bước tiến rất quan trọng. Trước đây, Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng và quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu. Cơ chế này tạo ra đặc quyền cho một số tổ chức, dẫn đến giá vàng trong nước thường lệch so với giá vàng quốc tế. Ảnh minh họa Việc xóa bỏ độc quyền mở ra cơ hội cho nhiều chủ thể tham gia thị trường, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và giúp giá vàng trong nước tiệm cận giá quốc tế. Hơn nữa, cơ chế này còn giúp Nhà nước kiểm soát dòng tiền đổ vào vàng, ổn định nền tài chính và hạn chế tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. - Trong điều kiện thị trường mở, có ý kiến cho rằng, vàng giả và vàng lậu sẽ xuất hiện nhiều hơn, ông có lo ngại về vấn đề này không? PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng: Đây là hiện tượng khó tránh. Khi thị trường được mở, nhiều người tham gia sẽ thấy việc kinh doanh vàng dễ dàng hơn, từ đó xuất hiện vàng giả hoặc vàng kém chất lượng. Tuy nhiên, vấn đề này có thể kiểm soát được nếu Nhà nước xây dựng bộ tiêu chuẩn vàng chuẩn mực, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ với các thương nhân, tổ chức đăng ký kinh doanh. Vàng lưu thông trên thị trường phải được chứng nhận chất lượng, kiểm soát theo tiêu chuẩn quốc gia, thậm chí theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt nghiêm khắc là cần thiết để răn đe những hành vi gian lận, tạo môi trường kinh doanh minh bạch. Chữ tín là nền tảng, thương hiệu nào đáng tin - Cơ chế mới sẽ tác động thế nào đến giá vàng trong nước, thưa ông? PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng: Khi cơ chế này ra đời, lượng vàng nhập khẩu dự kiến sẽ tăng, làm giảm chênh lệch giá giữa vàng nhập khẩu và giá vàng trong nước. Nhờ đó, giá vàng trong nước sẽ ổn định hơn và vận hành ôn hòa hơn. Dĩ nhiên, thị trường quốc tế vẫn có biến động do xung đột, chiến tranh ở Trung Đông hay các khu vực khác, nhưng với lượng vàng nhập khẩu lớn, áp lực chênh lệch giá sẽ giảm đáng kể, giúp thị trường vàng Việt Nam vận hành đúng hướng, hạn chế tình trạng độc quyền và đặc quyền của một số tổ chức lớn trong quá khứ. PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng, chuyên gia kinh tế và thương mại quốc tế, giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân. Ảnh: N.H - Vậy cạnh tranh giữa doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước sẽ diễn ra như thế nào? PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng: Cạnh tranh lành mạnh rất quan trọng, thúc đẩy sáng tạo, bình ổn lợi nhuận và phá vỡ các độc quyền. Trong cơ chế mới, các doanh nghiệp dù tư nhân hay Nhà nước, nếu hoạt động chuẩn mực, chất lượng cao và xây dựng uy tín sẽ được khách hàng tin tưởng và tồn tại lâu dài. Ngược lại, những doanh nghiệp làm ăn kém, gian lận sẽ tự loại khỏi thị trường. Ngoài luật pháp, dư luận xã hội cũng đóng vai trò quan trọng trong việc lên án các hành vi phi đạo đức, giúp thị trường vận hành minh bạch, công bằng. - Ông có thể nói rõ hơn về vai trò của uy tín và chất lượng trong cạnh tranh trên thị trường vàng? PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng: Chữ tín là yếu tố sống còn. Khách hàng luôn ưu tiên những thương hiệu đáng tin cậy. Ví dụ, vàng của một số doanh nghiệp tư nhân nổi tiếng về chất lượng vẫn được ưa chuộng dù Nhà nước tham gia kinh doanh. Cơ chế cạnh tranh bình đẳng cho phép cả tư nhân và Nhà nước cùng phát triển: ai làm tốt, uy tín cao sẽ tồn tại; ai làm kém, gian lận sẽ tự loại khỏi thị trường. - Ông đánh giá thế nào về tác động dài hạn của cơ chế mới? Với cơ chế này, vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường sẽ như thế nào? Và cơ chế mới sẽ mang lại lợi ích gì cho người dân, thưa ông? PGS - TS. Nguyễn Thường Lạng: Đây là bước đi mang tính đột phá, kết quả của quá trình nghiên cứu cơ chế gần 20–30 năm. Nó ổn định giá vàng trong nước, hội nhập thị trường quốc tế và tạo môi trường cạnh tranh minh bạch. Thị trường vàng Việt Nam với cơ chế mới có khả năng phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu tích trữ, đầu tư và kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Nhà nước vẫn đóng vai trò điều hành gián tiếp. Cơ chế mới không buông lỏng hoàn toàn mà kiểm soát dòng tiền, giám sát chất lượng vàng và ngăn ngừa hành vi gian lận. Điều này vừa bảo vệ người tiêu dùng, vừa giúp thị trường vàng vận hành ổn định, hạn chế đầu cơ hay thao túng giá. Người dân sẽ mua vàng với giá công bằng, sát với giá thế giới, giảm thiểu rủi ro bị chênh lệch giá. Thị trường minh bạch, uy tín doanh nghiệp được khẳng định, tạo niềm tin và thúc đẩy các hoạt động đầu tư, tích trữ vàng lành mạnh. Xin cảm ơn ông! Năm 1944, Hệ thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods duy trì vàng ngang giá với đô la Mỹ, với tỷ lệ cố định 35 USD/ounce. Tuy nhiên, hệ thống này kết thúc vào năm 1971 khi Mỹ ngừng khả năng chuyển đổi đô la sang vàng, đánh dấu sự chấm dứt kỷ nguyên bản vị vàng. Kể từ đó, vàng trở thành hàng hóa giao dịch tự do trên thị trường.
Xem thêm

Chuyển đổi số trong doanh nghiệp bán lẻ: Cơ hội và thách thức

Bên cạnh những lợi ích thiết thực, hoạt động chuyển đổi số trong doanh nghiệp bán lẻ cũng tồn tại những thách thức cần giải quyết. Chuyển đổi số đòi hỏi quá trình chuẩn bị lâu dài Phát biểu tại Hội thảo “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hàng tiêu dùng nhanh và thực phẩm trong bối cảnh chuyển đổi số và thương mại đa kênh” do Bộ Công Thương tổ chức sáng 25/6, ông Đào Thanh Tùng, Giám đốc Thương mại điện tử của LOTTE Mart Việt Nam cho biết, trong những năm gần đây, thương mại điện tử (một yếu tố quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số) không còn là xu hướng mới, mà đã trở thành một cấu phần cốt lõi trong chiến lược phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ. Theo báo cáo e-Conomy SEA 2023 do Google, Temasek và Bain & Company công bố, Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng thương mại điện tử bán lẻ nhanh thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Ông Đào Thanh Tùng, Giám đốc Thương mại điện tử của LOTTE Mart Việt Nam nêu những thách thức đối với doanh nghiệp bán lẻ khi tiến hành chuyển đổi số. Ảnh: Phong Lâm Với tỷ lệ thâm nhập người dùng trên nền tảng số vượt mốc 60%, thương mại điện tử đang dần hình thành nên một hệ sinh thái tiêu dùng mới, nơi khách hàng mong đợi sự liền mạch, tiện lợi và cá nhân hóa trong từng trải nghiệm. Nói về những thách thức khi tiến hành chuyển đổi số, đặc biệt là quá trình triển khai hoạt động thương mại điện tử trong ngành bán lẻ, ông Đào Thanh Tùng cho rằng, đối với các hệ thống siêu thị truyền thống, nơi có đặc thù về vận hành thực phẩm tươi sống, hậu cần và trải nghiệm vật lý, việc chuyển đổi lên nền tảng số, thương mại điện tử không chỉ là một bước thay đổi về công nghệ, mà là một cuộc tái cấu trúc toàn diện từ mô hình vận hành đến tư duy tổ chức. "Chuyển đổi số là một quá trình phức tạp và đòi hỏi quá trình chuẩn bị lâu dài. Các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại không chỉ cần xây dựng nền tảng công nghệ vững chắc, mà còn phải làm mới toàn bộ hệ sinh thái vận hành. Doanh nghiệp cần đầu tư dài hạn tối thiểu 3 - 5 năm, tránh tư duy ngắn hạn, đồng bộ hệ thống ERP (ERP là viết tắt của từ Enterprise Resources Planning, có nghĩa là hoạch định nguồn lực của doanh nghiệp), kho vận, quản trị khách hàng, dữ liệu. Đặc biệt là tăng cường đào tạo nhân sự không chỉ về kỹ năng công nghệ mà còn về tư duy phục vụ khách hàng trong môi trường số", ông Đào Thanh Tùng cho hay. Cũng theo ông Đào Thanh Tùng, thực tế tại các thị trường phát triển như Mỹ cũng cho thấy, không ít hệ thống bán lẻ đã từng thất bại trong chuyển đổi nếu thiếu tầm nhìn dài hạn. Chuỗi Target từng phải đối mặt với khủng hoảng khi triển khai thương mại điện tử giai đoạn đầu do thiếu kiểm soát tồn kho và giao nhận. Chỉ đến khi hệ thống này tái cấu trúc và tích hợp dữ liệu, công nghệ, họ mới phục hồi và phát triển bền vững. Để giải quyết vấn đề trên, năm 2023, LOTTE Mart chính thức ra mắt nền tảng LOTTEMart.vn, một bước chuyển hóa toàn diện trong hành trình số hóa. LOTTE Mart cũng đẩy mạnh tự động hóa quy trình xử lý đơn hàng theo thời gian thực; giao hàng linh hoạt trong 1 - 2 giờ, liên tỉnh 300km và nhận tại siêu thị. Đồng thời, đồng bộ tồn kho online và offline, tránh nhầm lẫn và tối ưu trải nghiệm. "Một minh chứng thực tiễn là trong đợt mưa bão tại Hà Nội tháng 5/2025, dù hệ thống giao thông tê liệt cục bộ, LOTTE Mart vẫn đảm bảo xử lý hơn 70% đơn hàng nhờ hệ thống vận hành linh hoạt, phân bổ đơn theo khu vực và ứng dụng công nghệ theo dõi lộ trình giao hàng. Song song đó, chúng tôi phát triển bán hàng đa nền tảng: từ website, app, đến GrabMart, ShopeeFood Mart, livestream… nhằm mở rộng điểm chạm và tăng độ bao phủ trong tâm trí người tiêu dùng", ông Đào Thanh Tùng chia sẻ kinh nghiệm. Cần sự hỗ trợ từ nhiều phía Theo thống kê từ eMarketer, tại Mỹ, doanh thu thương mại điện tử trong ngành bán lẻ đã chiếm gần 25% tổng doanh thu toàn ngành vào năm 2024, một chỉ dấu rõ ràng cho thấy tiềm năng phát triển rất lớn của thương mại điện tử và là mục tiêu hoàn toàn khả thi mà các doanh nghiệp bán lẻ tại Việt Nam có thể hướng đến nếu được đầu tư đúng hướng. Để thúc đẩy quá trình này, ông Đào Thanh Tùng nêu đề xuất, Nhà nước cần hỗ trợ hoàn thiện hạ tầng logistics số tại các vùng kinh tế trọng điểm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận chính sách hỗ trợ chuyển đổi số. Bên cạnh đó, xây dựng chương trình đào tạo chuyên biệt cho nhân lực ngành bán lẻ, phát triển hành lang pháp lý đồng bộ giữa thương mại điện tử - dữ liệu - thanh toán. Hội thảo “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hàng tiêu dùng nhanh và thực phẩm trong bối cảnh chuyển đổi số và thương mại đa kênh” do Bộ Công Thương tổ chức sáng 25/6. Ảnh: Phong Lâm Liên quan đến vấn đề trên, bà Trần Diệu Hương (Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, Bộ Công Thương cho biết, hệ thống phân phối hiện đại và thương mại điện tử những năm gần đây đang tăng trưởng mạnh. Năm 2024, thương mại điện tử tăng trên 22%, dự kiến chiếm 10% tổng mức bán lẻ năm 2025. Tuy nhiên, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn gặp khó khăn về vốn, công nghệ, nhân lực số để tiến hành chuyển đổi số và phát triển hoạt động thương mại điện tử. Trước thực trạng đó, các chính sách hỗ trợ được triển khai đồng bộ như đầu tư hạ tầng logistics, hỗ trợ tín dụng, thuế, đào tạo nhân lực, hoàn thiện pháp lý cho mô hình O2O, livestream… sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp tự tin hơn trong quá trình chuyển đổi số doanh nghiệp. Năm 2024, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam đạt trên 25 tỷ USD, tăng 20% so với năm trước, chiếm khoảng 9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội cũng tồn tại không ít thách thức. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn lúng túng trong việc tiếp cận công nghệ mới, quản trị đổi mới sáng tạo, đầu tư chuyển đổi số hay xây dựng hệ thống phân phối hiện đại.
Xem thêm

Đón đầu xu hướng chuyển dịch, doanh nghiệp Việt cần gì?

Xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang Việt Nam là cơ hội lớn cho nền kinh tế và doanh nghiệp nội địa, song năng lực cung ứng còn hạn chế, nhất là ngành công nghiệp chế tạo. Thách thức của doanh nghiệp trong làn sóng chuyển dịch đơn hàng Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang gặp gián đoạn bởi những cuộc xung đột chính trị, biến động kinh tế thì nhiều quốc gia, doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang Việt Nam. Đón đầu xu hướng chuyển dịch này, các doanh nghiệp trong nước đang nắm bắt khá tốt cơ hội và có nhiều hơn đơn hàng. Song khả năng cung ứng của doanh nghiệp trong nước đang còn hạn chế. Liên quan đến câu chuyện này, chia sẻ với Báo Công Thương, lãnh đạo Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, Bộ Công Thương nhận định, xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang Việt Nam là một cơ hội lớn cho nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt trong bối cảnh chiến tranh thương mại và các biến động địa chính trị toàn cầu. Xu hướng chuyển dịch đơn hàng sang Việt Nam là một cơ hội lớn cho nền kinh tế và doanh nghiệp Việt Nam. Ảnh: Minh Anh Ông Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường nước ngoài cho biết, Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hấp dẫn nhờ vào vị trí địa lý chiến lược, môi trường chính trị ổn định, chi phí lao động cạnh tranh, và mạng lưới 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 60 quốc gia và khu vực. Các doanh nghiệp nước ngoài đang tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng để giảm rủi ro từ thuế quan và các biện pháp hạn chế thương mại của một số thị trường xuất khẩu chủ lực. Theo số liệu, Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng, với kim ngạch xuất khẩu nửa đầu năm 2025 đạt gần 220 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng tốt, đặc biệt các thị trường khác như Bắc Âu, Trung Đông, Nam Á đang có những bứt phá đáng ghi nhận. Đây là minh chứng rõ nét cho xu hướng này. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên với số vốn đăng ký đạt 11,72 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2025, tốc độ tăng trưởng 8,1% so với cùng kỳ 2024. Cơ hội này không chỉ giúp tăng trưởng xuất khẩu mà còn thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Mặc dù cơ hội là rõ ràng, song theo phân tích từ lãnh đạo Vụ Phát triển thị trường nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức: Thứ nhất, năng lực cung ứng còn hạn chế, đặc biệt ở các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đòi hỏi công nghệ cao và tiêu chuẩn khắt khe từ các thị trường như Hoa Kỳ và EU. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và chưa đầu tư đủ vào công nghệ hiện đại, dẫn đến khó đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, số lượng và thời gian giao hàng. Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực như bán dẫn, công nghệ cao, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Mặc dù Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, dồi dào, nhưng cần đào tạo thêm để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Thứ ba, các rào cản thương mại, như thuế chống bán phá giá, điều tra phòng vệ thương mại từ Hoa Kỳ và EU, cũng là thách thức lớn, đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về xuất xứ hàng hóa và bảo vệ sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp FDI thường có lợi thế về vốn, công nghệ và mạng lưới phân phối, khiến doanh nghiệp nội địa phải nỗ lực hơn để giành được các đơn hàng. “Để vượt qua thách thức, doanh nghiệp cần chủ động tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, tận dụng các FTA, đồng thời đầu tư vào nâng cấp công nghệ và đào tạo nhân lực” - Vụ trưởng Tạ Hoàng Linh nhấn mạnh và cho biết thêm, Bộ Công Thương, thông qua Vụ Phát triển thị trường nước ngoài đang tích cực hỗ trợ doanh nghiệp kết nối hợp tác giao thương bằng cách tổ chức các sự kiện như Vietnam International Sourcing, kết nối doanh nghiệp với hàng trăm nhà phân phối, nhập khẩu lớn lớn, cũng như cung cấp thông tin thị trường và tháo gỡ các rào cản thương mại. Vietnam International Sourcing với nhiều điểm nhấn đặc biệt sẽ là cơ hội để doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực thực thi, đón đầu làn xóng chuyển dịch đơn hàng Đáng chú ý, theo ông Linh, năm 2025, Vietnam International Sourcing với nhiều điểm nhấn đặc biệt khi không chỉ là triển lãm kết nối mà còn là cơ hội kiến tạo hợp tác dài hạn; là điểm kết nối thu mua hợp tác, tư vấn của doanh nghiệp trên toàn cầu... Vụ trưởng Tạ Hoàng Linh nhấn mạnh, Vietnam International Sourcing 2025 không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu trực tiếp cho doanh nghiệp, mà còn góp phần định vị Việt Nam là trung tâm sản xuất và cung ứng hàng hóa uy tín trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Đây là kết quả của sự chủ động, linh hoạt trong xúc tiến thương mại quốc tế và cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong hỗ trợ doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới. Doanh nghiệp cần gì để đón đầu cơ hội? Trong bối cảnh đón đầu các làn sóng dịch chuyển đơn hàng của các doanh nghiệp nước ngoài về Việt Nam, khuyến nghị các giải pháp giúp doanh nghiệp trong nước tận dụng tốt cơ hội, ông Tạ Hoàng Linh lưu ý: Một là, cộng đồng doanh nghiệp trong nước cần nâng cao năng lực sản xuất thông qua đầu tư vào công nghệ, tối ưu hóa quy trình và đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng và phát triển bền vững. Hai là, tăng cường hiểu biết về các FTA, đặc biệt là các quy định về xuất xứ hàng hóa, để tận dụng ưu đãi thuế quan. Ba là, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các nhà phân phối và đối tác quốc tế thông qua các sự kiện kết nối do Bộ Công Thương tổ chức. Lãnh đạo Vụ Phát triển thị trường nước ngoài nhấn mạnh, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các hội thảo, diễn đàn cung cấp thông tin thị trường, và phối hợp với các Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài để kết nối doanh nghiệp với các đối tác tiềm năng. Doanh nghiệp cần chủ động, linh hoạt và sáng tạo để không chỉ tham gia mà còn nâng tầm vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chuỗi sự kiện Vietnam International Sourcing 2025, diễn ra từ ngày 4- 6/9/2025 tại TP. Hồ Chí Minh, là một hoạt động có ý nghĩa chiến lược nhằm hỗ trợ doanh nghiệp kết nối với các hệ thống phân phối, các nhà nhập khẩu và chuỗi bán lẻ toàn cầu một cách thiết thực, hiệu quả và lâu dài. Năm 2025, sự kiện tiếp tục thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ cộng đồng doanh nghiệp quốc tế. Tính đến thời điểm hiện tại, Bộ Công Thương đã phối hợp với hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài và các đối tác quốc tế để mời hơn 300 đoàn thu mua đến từ trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, đại diện cho các thị trường xuất khẩu trọng điểm và tiềm năng như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU, Úc, Canada, Trung Đông, Ấn Độ, Nam Á, châu Phi, Mỹ Latinh và khu vực ASEAN.
Xem thêm

Giá nhà ở Canada có thể đạt mức cao mới vào năm 2026

Giá nhà ở Canada có thể đạt mức đỉnh tương tự như năm 2022 vào năm tới và đạt mức cao mới vào năm 2026. Số lượng nhà cho thuê tại Canada tăng trong năm 2023 - Ảnh minh họa: besthomesbc.com Theo báo cáo về triển vọng thị trường nhà ở mới nhất của Tập đoàn Nhà ở và Thế chấp (CMHC) của Canada, giá nhà có thể đạt mức đỉnh tương tự như năm 2022 vào năm tới và đạt mức cao mới vào năm 2026. Số lượng nhà cho thuê trên thị trường tăng trong năm 2023, nguồn cung được dự báo không theo kịp nhu cầu, dẫn đến giá thuê cao hơn và tỉ lệ nhà trống thấp hơn trong những năm tới. Chuyên gia kinh tế trưởng Bob Dugan của CMHC cho biết các điều kiện tài chính không thuận lợi sẽ khiến các công ty xây dựng nhà gặp khó khăn hơn, trong việc bắt đầu các dự án cho thuê mới vào năm 2024. Nhưng đến năm 2025-2026, lãi suất sẽ thấp, sự hỗ trợ liên tục của chính phủ và các chính sách khuyến khích mật độ dân số cao ở các trung tâm đô thị sẽ khiến nhiều dự án trở nên khả thi hơn. Theo CMHC, trong ba năm tới, lãi suất thế chấp giảm và tốc độ tăng dân số mạnh nhất của đất nước kể từ những năm 1950 có thể sẽ thúc đẩy doanh số bán và giá nhà phục hồi. Tính đến cuối năm 2023, doanh số bán nhà đã giảm khoảng 1/3 so với mức đỉnh điểm vào đầu năm 2021. Khi lãi suất thế chấp và sự không chắc chắn về kinh tế giảm vào nửa cuối năm 2024, người mua sẽ bắt đầu quay trở lại thị trường. Sự trỗi dậy này cũng sẽ được thúc đẩy bởi sự thay đổi nhu cầu đối với những ngôi nhà và giá thấp hơn trên thị trường khắp Canada. CMHC dự đoán hoạt động bán hàng từ năm 2025 - 2026 sẽ vượt qua mức trung bình 10 năm qua một chút, nhưng vẫn ở dưới mức kỷ lục được ghi nhận từ năm 2020 đến năm 2021, do giá nhà ở vẫn còn đắt đỏ. Số lượng nhà mới xây ở Canada dự kiến sẽ giảm trong năm nay, trước khi phục hồi vào năm 2025 và 2026, phản ánh tác động trễ của lãi suất cao hơn đối với hoạt động xây dựng mới. Một báo cáo tuần trước của cơ quan này cho thấy 137.915 căn hộ mới đã được khởi công xây dựng trong năm 2023 trên sáu thành phố lớn nhất của Canada, gần tương đương với mức của ba năm qua.
Xem thêm

THÔNG TIN THỊ TRƯỜNG

Hướng tới top 10 xuất khẩu nông, lâm, thủy sản: Đòn bẩy từ công nghệ

Đẩy mạnh công nghệ bảo quản, chế biến và cơ giới hóa không chỉ giảm tổn thất sau thu hoạch mà còn giúp Việt Nam tăng tốc vào top 10 xuất khẩu nông, lâm, thủy sản toàn cầu. Thông tin được đưa ra tại "Hội nghị Khoa học, công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thủy sản và cơ giới hóa nông nghiệp toàn quốc năm 2025" với chủ đề: "Nâng cao chất lượng, hiệu quả, giảm thất thoát và lãng phí lương thực, thực phẩm" do Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (VIAEP) phối hợp cùng Hội Khoa học và Công nghệ Lương thực Thực phẩm Việt Nam (VAFoST) và Hội Cơ khí Nông nghiệp Việt Nam (VSAGE) tổ chức ngày 12/9, tại Hà Nội. Nông nghiệp Việt Nam khẳng định vị thế toàn cầu Phát biểu khai mạc tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho biết, trong một thập kỷ qua, nông nghiệp Việt Nam đạt nhiều thành tựu toàn diện. Tốc độ tăng trưởng GDP ngành duy trì 2,5 – 3,5%/năm; giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2024 đạt kỷ lục 62,5 tỷ USD, tăng gần 19% so với năm 2023, đưa Việt Nam vào nhóm 10 quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: N.H Cơ cấu ngành đã có chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chế biến tăng, nông nghiệp xanh, tuần hoàn và chuyển đổi số bắt đầu hình thành rõ nét. Công nghệ bảo quản, chế biến giúp giảm tổn thất sau thu hoạch 5 – 10%, nâng cao chất lượng và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Cơ giới hóa nông nghiệp cũng tiến mạnh, tỷ lệ cơ giới hóa làm đất đạt trên 95%, nhiều mô hình ứng dụng drone, IoT, trí tuệ nhân tạo, robot đã được triển khai, góp phần tăng năng suất và giảm chi phí. Tuy vậy, Thứ trưởng thẳng thắn nhìn nhận, việc ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế, tỷ lệ thất thoát ở rau quả, thủy sản vẫn cao; cơ giới hóa thiếu đồng bộ ở nhiều khâu; doanh nghiệp chế biến đa phần quy mô nhỏ, thiếu liên kết và sức cạnh tranh. Trong bối cảnh mới, ông Tiến nhấn mạnh, hội nghị năm nay không chỉ chia sẻ kết quả nghiên cứu mà còn là diễn đàn kết nối “bốn nhà”: Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp – Nhà nông, nhằm tìm giải pháp ứng dụng công nghệ giảm tổn thất, phát triển cơ giới hóa đồng bộ, thúc đẩy chuyển đổi số và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu. Để hiện thực hóa, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định năm định hướng: Hoàn thiện thể chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và chuyển giao công nghệ; Phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo nông nghiệp vùng gắn kết viện – trường – doanh nghiệp; Mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt trong chế biến sâu, logistics, cơ giới hóa thông minh; Thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu, huy động nguồn lực ngoài ngân sách; Xây dựng mô hình chuỗi giá trị nông sản ứng dụng công nghệ cao, truy xuất minh bạch. “Khoa học, công nghệ không chỉ là động lực mà còn là then chốt để nông nghiệp phát triển bền vững. Với tinh thần đổi mới sáng tạo cùng sự đồng hành của các nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân, tôi tin tưởng nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục vươn lên, khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh. Công nghệ xanh, chìa khóa nâng sức cạnh tranh nông sản Việt Chia sẻ tại hội nghị, TS. Nguyễn Anh Phong, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nhấn mạnh kinh tế tuần hoàn mang lại lợi ích đa chiều: giảm chất thải, tiết kiệm tài nguyên (môi trường); cắt giảm chi phí đầu vào, tăng giá trị đầu ra (kinh tế); tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống (xã hội). Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: N.H Những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định và chương trình hành động, hình thành khung chính sách khá đầy đủ để thúc đẩy nông nghiệp tuần hoàn. Thực tế, nhiều mô hình đã được áp dụng từ quy mô doanh nghiệp, hợp tác xã đến nông hộ, bước đầu hình thành hệ sinh thái tuần hoàn. Tuy vậy, vẫn còn những hạn chế: nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa đầy đủ; chính sách hỗ trợ còn phân tán, chưa có chương trình riêng; tỷ lệ tái sử dụng phụ phẩm thấp, cụ thể trồng trọt mới đạt 52%, lâm nghiệp đạt khoảng 50%. Đặc biệt, mô hình tuần hoàn hiện chủ yếu nằm ở doanh nghiệp lớn, chưa tạo thành chuỗi liên kết giá trị, trong khi nghiên cứu, chuyển giao và đầu tư khoa học – công nghệ còn hạn chế. Ở góc độ thị trường, yêu cầu về sản phẩm xanh ngày càng gia tăng tại EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... Đây vừa là áp lực, vừa là động lực để doanh nghiệp Việt Nam đổi mới theo hướng tuần hoàn. Về giải pháp, ông Phong cho biết Bộ đã ban hành bốn chương trình hành động cho trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp, tạo cơ sở triển khai khoa học – công nghệ gắn với hành động cụ thể. Song song, cần xây dựng bộ tiêu chí sản xuất tuần hoàn, cơ chế trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), phát triển tín dụng xanh và ưu tiên doanh nghiệp đạt chuẩn xanh trong tiếp cận vốn, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu. Ngoài ra, các mô hình liên kết hợp tác xã (HTX) – doanh nghiệp cần được ưu tiên để hình thành hệ sinh thái tuần hoàn gắn với vùng sản xuất tập trung và chế biến. Một nhiệm vụ cấp thiết khác là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tuần hoàn, tạo nền tảng thông tin minh bạch cho doanh nghiệp, HTX và người dân. Đồng thời, cần huy động nguồn lực ngân sách, ODA và hỗ trợ quốc tế cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ bảo quản, chế biến tiên tiến, qua đó nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam. GS.TS Lê Văn Tán, giảng viên và nhà nghiên cứu, đồng thời phụ trách Tạp chí Khoa học và Công nghệ của Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh nêu câu hỏi: “Nếu Việt Nam không kịp thời tiếp cận và ứng dụng công nghệ xanh, thì trong 10 năm tới chúng ta sẽ ở đâu trên bản đồ sản xuất và xuất khẩu nông sản toàn cầu?” Đây là điều cần suy nghĩ ngay từ bây giờ. Theo ông Lê Văn Tán, để trả lời câu hỏi này, phát triển công nghệ cần dựa trên ba nguyên tắc: Công nghệ được ứng dụng rộng rãi, mang tính thực tiễn; bảo đảm chất lượng, an toàn và lợi ích cho người tiêu dùng; giảm phát thải, bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững. Quan trọng nhất là tạo sự cân bằng giữa công nghệ xanh và lợi ích kinh tế. GS.TS Lê Văn Tán chỉ ra ba xu hướng nổi bật: phát triển kinh tế tuần hoàn và hệ sinh thái thông minh; ứng dụng công nghệ cao trong chế biến nông sản (enzyme, bảo quản sinh học, nông nghiệp chính xác, nông nghiệp số); kết nối công nghệ liên ngành để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm. Ông cũng nhấn mạnh, khoa học, công nghệ đã trải qua các giai đoạn: từ xử lý đơn lẻ, đến tích hợp quy trình, và nay là ứng dụng công nghệ tiên tiến. Một số công nghệ hiện đại đang được nghiên cứu và bước đầu triển khai gồm: siêu âm cường độ cao, plasma lạnh, xử lý áp suất cao (HP), điện trường xung (PDE). Các công nghệ này giúp kéo dài thời hạn bảo quản, duy trì giá trị dinh dưỡng và chất lượng sản phẩm, nhưng thách thức lớn là chi phí thiết bị và khả năng triển khai ở quy mô sản xuất. "Trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và đầu tư để từng bước thương mại hóa các công nghệ này, bởi đây sẽ là yếu tố quyết định giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn xanh toàn cầu", ông Lê Văn Tán khuyến nghị. Chiều 12/9, hội nghị diễn ra 4 hội thảo chuyên sâu về sơ chế – bảo quản nông sản, chế biến nông lâm thủy sản, sinh học thực phẩm – đồ uống và cơ giới hóa nông nghiệp. Song song, không gian trưng bày sản phẩm được bố trí, tạo cơ hội cho doanh nghiệp, viện nghiên cứu và đơn vị sản xuất giới thiệu thành tựu, kết nối hợp tác và chuyển giao công nghệ.
Xem thêm

Giải pháp nào lấp 'khoảng trống' thị phần nông sản Việt tại thị trường EU?

Mặc dù EU là thị trường nông sản lớn thứ 3 toàn cầu, nhưng hàng Việt mới chỉ đạt 2% thị phần. Đâu là lý do và giải pháp nào để lấp đầy "khoảng trống" này? Thị trường lớn, khắt khe nhưng nhiều dư địa cho nông sản Việt Với quy mô dân số 450,4 triệu người (2025), GDP đạt 19,4 nghìn tỷ USD (2024), chiếm gần 18% toàn cầu, cùng mức chi tiêu cho thực phẩm - đồ uống lên tới 1.100 tỷ Euro/năm, EU được coi là một trong những thị trường nông lâm thủy sản lớn nhất và khắt khe nhất thế giới. Năm 2024, nhập khẩu nông lâm thủy sản của khối đạt 348 tỷ USD và dự báo 2025 sẽ tăng lên 363,9 tỷ USD. Các nhóm hàng nhập khẩu chủ lực gồm rau quả, thủy sản, cà phê, hạt điều, gỗ, tiêu… với giá trị chiếm từ 30 - 60% tổng nhập khẩu toàn cầu. Năm 2024, kim ngạch nhập khẩu cà phê của EU đạt 26,33 tỷ USD, chiếm trên 60% nhập khẩu cà phê của thế giới. Ảnh: Minh họa Việt Nam hiện là một trong những đối tác cung ứng quan trọng, với kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường EU tăng đều qua các năm, từ 3,76 tỷ USD (2019) lên 5,44 tỷ USD (2024). Riêng 7 tháng năm 2025, con số đã đạt 4,73 tỷ USD, tăng 49% so với cùng kỳ. Các mặt hàng chủ lực gồm cà phê, thủy sản, gỗ, hạt điều, rau quả, với thị trường nhập khẩu lớn nhất là Đức, tiếp theo là Hà Lan, Tây Ban Nha, Bỉ và Italia. Hiện, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 2% tổng giá trị nhập khẩu nông sản của EU, cho thấy dư địa tăng trưởng còn rất lớn. Tuy nhiên, nông sản Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn khi vào thị trường đầy tiềm năng này. Ông Trần Văn Công, Tham tán Nông nghiệp Việt Nam tại EU thông tin, với nhóm sản phẩm động vật trên cạn của Việt Nam chưa được EU mở cửa; chưa tháo gỡ được “thẻ vàng IUU” đối với thủy sản khai thác; chính sách thuế và cạnh tranh gia tăng khi các quốc gia khác đang dịch chuyển nguồn cung sang thị trường EU do ưu đãi về thuế quan; khoảng cách địa lý xa, chi phí logistics cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt tại thị trường này. Ngoài ra, Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm thô hoặc sơ chế, sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao của Việt Nam vào EU còn khiêm tốn. Trong khi đó, đặc điểm nổi bật của thị trường này yêu cầu khắt khe về chất lượng, an toàn thực phẩm, phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội. Đối với nhóm hàng có nguồn gốc thực vật, EU không yêu cầu mã vùng trồng, mã đóng gói bắt buộc như một số thị trường khác mà chủ yếu áp dụng phương thức hậu kiểm. Tuy nhiên, một số sản phẩm như thanh long, ớt, đậu bắp vẫn bị áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn do từng bị cảnh báo về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Đối với hàng thủy sản, EU đã mở cửa toàn diện nhưng yêu cầu rất cao về truy xuất nguồn gốc, chứng nhận an toàn thực phẩm và khai thác hợp pháp. EU cũng chuẩn bị thực thi Quy định chống mất rừng (EUDR), có hiệu lực từ ngày 31/12/2025. Việt Nam là một trong số ít quốc gia được xếp vào nhóm rủi ro thấp, tuy nhiên các doanh nghiệp vẫn cần chủ động chuẩn bị để đáp ứng quy định này. Doanh nghiệp tái cấu trúc theo hướng bền vững để chinh phục EU Sau 5 năm thực thi EVFTA, EU đã xóa bỏ thuế nhập khẩu với gần 100% số dòng thuế, tạo lợi thế lớn cho nông, lâm, thủy sản Việt Nam. So với các đối thủ từ Nam Mỹ, châu Á hay châu Phi vốn phải chịu thuế MFN (thuế nhập nhập khẩu ưu đãi) hoặc GSP (Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập) từ 4% trở lên, hàng Việt đang có ưu thế cạnh tranh rõ rệt tại thị trường này. EU là thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng. Nếu tận dụng tốt các hiệp định thương mại như EVFTA, kết hợp cải thiện chất lượng, năng lực sản xuất, xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU hoàn toàn có thể đạt bước tiến mạnh mẽ trong thời gian tới. Ông Trần Văn Công phân tích, với ngành hàng rau, quả, sản phẩm chế biến của Việt Nam mới chiếm khoảng 20% trong cơ cấu xuất khẩu sang EU, trong khi thuế nhập khẩu hàng chế biến hiện ở mức 0% cùng với lợi thế lớn đến từ các loại rau quả nhiệt đới và đặc trưng theo mùa. Cà phê chế biến, đặc biệt là hòa tan chiếm 18% thị phần nhập khẩu của EU, bên cạnh đó, cà phê rang xay của Việt Nam được hưởng thuế 0% thì nhiều đối thủ phải chịu mức thuế từ 7,5% - 11,5%, tạo ra lợi thế cạnh tranh rõ rệt. Với mặt hàng thủy sản, hiện có khoảng 600 doanh nghiệp Việt Nam được cấp mã số xuất khẩu vào EU. Nổi bật là các dòng hàng giá trị gia tăng như tôm sinh thái, tôm đạt chứng nhận ASC, tôm sú phân khúc cao cấp. EU tăng mạnh nhu cầu với gỗ hợp pháp, có chứng chỉ. Việc tuân thủ EUDR, FLEGT cùng xu hướng đầu tư rừng trồng có chứng chỉ mở ra cơ hội lớn cho sản phẩm ván sàn, với nhu cầu dự báo đạt 55,8 tỷ USD vào năm tới;… Để tăng thị phần vào thị trường EU, ông Trần Văn Công khuyến nghị các doanh nghiệp, hiệp hội, bộ, ngành tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu các nhóm sản phẩm có ưu thế như rau quả chế biến, cà phê chế biến, tôm sú, tôm sinh thái có chứng nhận quốc tế, gỗ ván sàn và cao su tự nhiên. Đồng thời kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm hoàn tất hồ sơ trình EU đánh giá mở cửa cho sản phẩm động vật trên cạn; cập nhật các quy định EUDR và hướng dẫn doanh nghiệp, địa phương chuẩn bị sẵn sàng; đẩy nhanh tiến độ làm việc với EC để sớm gỡ thẻ vàng IUU; xây dựng vùng nuôi an toàn, nâng cao chất lượng hàng hóa, phát triển thương hiệu và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nông sản tại EU. Với thị trường EU, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho biết, Bộ sẽ tiếp tục tập trung xử lý vấn đề áp dụng thẻ vàng IUU đối với thủy sản Việt Nam; tăng cường các biện pháp kiểm tra, xử lý tháo gỡ một số mặt hàng đang trong danh mục tăng tần suất kiểm tra của EU (thanh long, đậu bắp, ớt, sầu riêng). Đồng thời, phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn xuất khẩu sang EU và tăng cường và mở rộng sản xuất hữu cơ đạt tiêu xuất khẩu sang thị trường EU. Ở góc độ doanh nghiệp, để thích ứng, nhiều doanh nghiệp đã chủ động tái cấu trúc theo hướng bền vững. EU là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam. Trong 6 tháng đầu năm nay, Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk (Simexco Đắk Lắk) ghi nhận doanh thu kỷ lục 550 triệu USD, dù sản lượng không tăng, nhờ tập trung vào cà phê chế biến sâu và phát triển sản phẩm đạt chứng nhận bền vững. Ông Lê Đức Huy, Chủ tịch HĐTV Simexco Đắk Lắk cho biết, doanh nghiệp đã xây dựng bản đồ số, truy xuất nguồn gốc đến từng nông hộ và chú trọng nâng chất lượng cà phê Robusta để đáp ứng thị hiếu mới của thị trường EU. Về tầm nhìn dài hạn, Tổng Công ty Cà phê Việt Nam định hướng xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh, áp dụng công nghệ, phát triển dịch vụ hậu cần và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ông Đặng Hồng Tuấn, Tổng Công ty Cà phê Việt Nam cho hay, doanh nghiệp đặt mục tiêu đến năm 2035 trở thành tập đoàn nông nghiệp xanh, bền vững, có sức cạnh tranh quốc tế và dẫn đầu trong ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Với việc đẩy mạnh chứng nhận bền vững, xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển sản phẩm chế biến sâu và tăng cường xúc tiến thương mại, nông sản Việt không chỉ giữ vị trí nhà cung ứng hàng đầu mà còn gia tăng giá trị, chỗ đứng tại một trong những thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng nhất thế giới. Mỗi năm EU chi khoảng gần 102 tỷ USD nhập khẩu rau quả; 26,33 tỷ USD nhập khẩu cà phê; hạt điều 3,53 tỷ USD; tiêu 353 triệu USD; thủy sản 60 tỷ USD; gỗ và các sản phẩm gỗ 59 tỷ USD; cao su và các sản phẩm cao su 60 tỷ USD; sản phẩm mây tre đan cói, OCOP 40 tỷ USD; nhập khẩu 1,7 - 2 triệu tấn gạo.
Xem thêm

Xuất khẩu thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Brazil

Nửa đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9%, trong đó, giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Brazil với mức tăng 71,3%. Nhiều dư địa tăng trưởng xuất khẩu tại thị trường Brazil Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 6 năm 2025 ước đạt 950 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu hàng thủy sản 6 tháng đầu năm 2025 đạt 5,16 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2024. Nửa đầu năm 2025, xuất khẩu cá tra thu về gần 1 tỷ USD. Ảnh: Tạp chí Thủy sản Việt Nam Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là 3 thị trường tiêu thụ hàng thủy sản lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần lần lượt là 19,6%, 18,2% và 15%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tăng mạnh nhất ở thị trường Brazil với mức tăng 71,3%. Trong những thị trường lớn của cá tra Việt Nam hiện nay, Brazil được coi là còn nhiều dư địa để tăng trưởng. Theo bà Lê Hằng - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), Brazil là quốc gia sản xuất nuôi trồng thủy sản lớn thứ hai ở Mỹ Latinh, với sản lượng hàng năm đạt khoảng 900 nghìn tấn, trong đó cá rô phi chiếm khoảng 65%. Tuy nhiên, ngành thủy sản nội địa không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng, đặc biệt với các sản phẩm như cá hồi, cá tuyết, tôm và cá thịt trắng. Brazil phải nhập khẩu 1,4 - 1,5 tỷ USD thủy sản mỗi năm, tập trung vào các mặt hàng cao cấp từ Chile (cá hồi) và Việt Nam (cá tra). “Mức tiêu thụ 12 kg/người/năm, cao hơn Mỹ nhưng thấp hơn Nhật Bản, cho thấy dư địa tăng trưởng lớn. Với nền kinh tế dự kiến tăng trưởng 2,2% GDP, nhập khẩu thủy sản được dự báo sẽ tiếp tục tăng, đặc biệt với các sản phẩm giá trị cao và tiện lợi. Việt Nam, với thế mạnh về cá tra, đã tận dụng tốt khoảng trống này”, bà Lê Hằng nói. Trong đó, cá tra Việt Nam, với giá thành thấp và chất lượng ổn định, là lựa chọn lý tưởng cho phân khúc trung lưu và bình dân tại thị trường Brazil. So với các sản phẩm cao cấp từ Chile hay EU, thủy sản Việt Nam có lợi thế về giá, giúp mở rộng thị phần trong bối cảnh Brazil ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm phù hợp túi tiền. Mặt khác, nếu như trước đây, tiêu chuẩn nghiêm ngặt về phụ gia và phosphate của Brazil gây khó khăn cho cá tra Việt Nam. Tuy nhiên, việc Brazil xem xét điều chỉnh các tiêu chuẩn này theo thông lệ quốc tế mở ra cơ hội lớn. Điều này không chỉ giảm chi phí kiểm định mà còn tạo điều kiện để Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm chế biến sâu như cá tra tẩm bột, giúp đa dạng hóa danh mục và tăng giá trị xuất khẩu. Nâng cao chất lượng, chìa khóa để chinh phục thị trường Nam Mỹ Ngày 24/4/2025, Công báo của Brazil đã đăng tải thông báo của Bộ Nông nghiệp và Chăn nuôi Brazil về việc chính thức thu hồi lệnh đình chỉ nhập khẩu cá rô phi của Việt Nam. Quyết định dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu cá rô phi của Việt Nam đã được đưa ra trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Brazil Luiz Inácio Lula da Silva từ ngày 27-29/3/2025 vừa qua. Thủ tướng Chính phủ và Tổng thống Brazil chứng kiến Lễ công bố lô hàng xuất khẩu cá tra-basa, cá rô phi đầu tiên của Việt Nam sang Brazil và Lễ công bố lô hàng xuất khẩu thịt bò đầu tiên của Brazil sang Việt Nam. Ảnh: VGP/Nhật Bắc Trưa 5/7 (giờ địa phương), nhân dịp tham dự Hội nghị Thượng đỉnh BRICS mở rộng và thực hiện các hoạt động song phương tại Brazil, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có cuộc hội đàm quan trọng với Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva. Hai nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng trước những kết quả rất tích cực và cụ thể trong mở cửa thị trường nông sản hai nước. Trong dịp này Brazil đã xuất khẩu lô đầu tiên mặt hàng thịt bò sang Việt Nam và Việt Nam đã xuất lô hàng cá tra - basa và cá rô phi sang Brazil, góp phần tăng cường hiệu quả hợp tác kinh tế, thương mại, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp của hai nước.  Brazil khẳng định sẵn sàng nhập khẩu nhiều hơn thủy hải sản, gạo của Việt Nam. Hai bên cũng nhất trí ký hiệp định về bảo đảm an ninh lương thực ổn định, lâu dài cho Brazil thông qua việc nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Năm 2025, ngành thủy sản đặt mục tiêu xuất khẩu ước đạt 10,5 tỷ USD tăng 4,3% so với cùng kỳ 2024. Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhận định, trong bối cảnh thị trường xuất khẩu có nhiều biến động, bên cạnh các thị trường truyền thống, các doanh nghiệp cần mở rộng thị trường và gia tăng xúc tiến thương mại, kết nối mở rộng đối tác, tìm kiếm bạn hàng tại khu vực Trung Đông, ASEAN, châu Đại Dương và châu Mỹ La tinh. Hiện có 26 doanh nghiệp ngành thủy sản như Hùng Cá, Cadovimex, Nam Việt, Hoàng Long,… đang hoạt động tại Brazil. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động và hàng xuất khẩu trong nước cần tìm thị trường thay thế, việc mở cửa thị trường Brazil cho sản phẩm cá tra và xuất khẩu trở lại sản phẩm cá rô phi sẽ mang đến nhiều cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Qua đó, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu nói chung, từng bước cân bằng cán cân thương mại và hướng tới mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương đạt 15 tỷ USD vào năm 2030. Để tận dụng tối đa cơ hội xuất khẩu thủy sản tại Brazil, bà Lê Hằng khuyến nghị doanh nghiệp cần theo dõi sát quy định nhập khẩu, đặc biệt về phosphate và kiểm dịch, để điều chỉnh sản phẩm phù hợp. Đầu tư vào chế biến sâu, phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng như cá tra tẩm gia vị, chả cá, nhằm phục vụ phân khúc tiêu dùng tiện lợi. Tham gia xúc tiến thương mại, tận dụng hội chợ và hỗ trợ từ Thương vụ Việt Nam để xây dựng thương hiệu. Đảm bảo chứng nhận bền vững, đáp ứng yêu cầu khắt khe của Brazil về truy xuất nguồn gốc và môi trường. Việc vượt qua các rào cản kỹ thuật và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là chìa khóa để doanh nghiệp Việt Nam chinh phục thị trường Nam Mỹ đầy tiềm năng này. Việt Nam và Brazil đang nỗ lực nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 10 tỷ USD vào năm 2025 và 15 tỷ USD vào năm 2030. Là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại Nam Mỹ, Brazil mang lại cơ hội để doanh nghiệp thủy sản mở rộng thị phần. Đàm phán FTA Việt Nam - Mercosur, trong đó Brazil là thành viên, có thể dẫn đến các ưu đãi thuế, giúp thủy sản Việt Nam cạnh tranh tốt hơn với Ấn Độ hay Thái Lan.  
Xem thêm

Hội nghị giao thương Việt Nam - Campuchia: Thúc đẩy hợp tác chiến lược

Hội nghị giao thương doanh nghiệp Việt Nam và Campuchia tại Phnom Penh góp phần thúc đẩy hợp tác chiến lược, mở rộng cơ hội kinh doanh. Hội nghị giao thương mở lối hợp tác mới Chiều 28/8/2025, tại thủ đô Phnom Penh, Bộ Công Thương Việt Nam chủ trì, Cục Xúc tiến thương mại và Thương vụ Việt Nam tại Campuchia phối hợp cùng Bộ Thương mại Campuchia đã tổ chức Hội nghị Giao thương Doanh nghiệp Việt Nam - Campuchia. Hội nghị thu hút hơn 200 đại biểu từ các cơ quan quản lý, hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp hai nước tham dự. Sự kiện nằm trong khuôn khổ các hoạt động hợp tác song phương nhằm tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường và khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế giữa Việt Nam và Campuchia, hai đối tác láng giềng, có quan hệ hợp tác truyền thống và ngày càng gắn kết chiến lược. Ông Seang Thay, Quốc Vụ khanh Bộ Thương mại Campuchia cho biết, sau khi đi thăm khu vực trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trước thềm hội nghị, ông nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam có thể cung ứng những sản phẩm mà thị trường Campuchia đang thực sự có nhu cầu. Ông Seang Thay đánh giá cao sự tham gia của các cơ quan Bộ Công Thương Việt Nam phối hợp với Bộ Thương mại Campuchia tổ chức các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp hai nước tiếp xúc giao thương trực tiếp và mong muốn có nhiều hơn nữa những chương trình tương tự. Tháng 12/2025 tới, Bộ Thương mại Campuchia có kế hoạch tổ chức Hội chợ Xuất nhập khẩu quy mô lớn tại Phnom Penh với sự đồng hành của Bộ Công Thương Việt Nam, giúp doanh nghiệp hai nước thêm các cơ hội hợp tác kinh doanh. Ông Seang Thay – Quốc Vụ khanh Bộ Thương mại Campuchia Phát biểu tại hội nghị, ông Bùi Quang Hưng, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương Việt Nam cho biết, để khai thác hiệu quả tiềm năng hợp tác, Cục Xúc tiến thương mại có kế hoạch sẽ phối hợp với các đối tác Campuchia triển khai một số nội dung trọng tâm như: Tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng Việt Nam tại Phnom Penh và một số tỉnh, thành lớn của Campuchia; thành lập và duy trì cơ sở dữ liệu kết nối trực tuyến doanh nghiệp hai nước, hỗ trợ giao thương xuyên biên giới nhanh chóng, minh bạch; tổ chức các đoàn khảo sát thị trường, đưa doanh nghiệp Việt Nam đến tiếp xúc trực tiếp với các nhà nhập khẩu, phân phối Campuchia; tăng cường tập huấn cho doanh nghiệp Việt Nam về tiêu chuẩn chất lượng, quy định nhập khẩu, hệ thống phân phối và văn hóa kinh doanh của Campuchia. Ông Bùi Quang Hưng, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại phát biểu tại sự kiện Để các hoạt động xúc tiến thương mại đạt hiệu quả thực chất, ông Bùi Quang Hưng đề nghị có sự phối hợp, hỗ trợ tích cực từ Bộ Thương mại Vương quốc Campuchia, cụ thể là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam tại Campuchia, đặc biệt trong việc tổ chức hội chợ, triển lãm, tuần hàng Việt Nam tại Campuchia; hỗ trợ cung cấp thông tin về chính sách, quy định mới liên quan đến nhập khẩu và lưu thông hàng hóa, giúp doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt kịp thời thông tin cần thiết. Đồng thời, ông Hưng mong muốn Bộ Thương mại Campuchia tăng cường hỗ trợ kết nối doanh nghiệp Việt Nam với các hiệp hội ngành hàng, hệ thống phân phối và nhà nhập khẩu lớn của Campuchia để tăng cơ hội hợp tác thực chất; phối hợp trong việc tháo gỡ khó khăn, rào cản kỹ thuật, nhằm thúc đẩy lưu chuyển hàng hóa thuận lợi, cân bằng lợi ích giữa hai bên. Trong bối cảnh kinh tế khu vực và toàn cầu đang có những biến động phức tạp, việc tăng cường kết nối doanh nghiệp hai nước càng trở nên quan trọng. Thông qua các hội nghị giao thương, doanh nghiệp không chỉ nắm bắt kịp thời thông tin thị trường, mà còn thiết lập các quan hệ hợp tác dài hạn, bền vững, cùng nhau tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Mở rộng cơ hội đầu tư Ông Đỗ Việt Phương, Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Campuchia cho rằng, nền kinh tế và danh mục hàng hóa xuất khẩu của hai nước có tính bổ sung lẫn nhau, mỗi nước đều sở hữu những tiềm năng nội tại phù hợp. Hiện nay, hai nước đều có rất nhiều dòng sản phẩm có giá trị gia tăng. Có một số mặt hàng xuất nhập khẩu thường xuyên đạt giá trị trao đổi cao. Lưu lượng thương mại hai nước đang gia tăng vì lợi ích và phúc lợi của cộng đồng doanh nghiệp hai bên, trên cơ sở sự kết nối chặt chẽ và tình hữu nghị ngày càng phát triển theo thời gian giữa cộng đồng doanh nghiệp hai nước. Đây chính là nền tảng để hai nước hiện thực hóa mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương sớm đạt mốc 20 tỷ USD trong thời gian tới, theo định hướng của lãnh đạo hai Chính phủ. Đại biểu hai nước chụp hình lưu niệm tại hội nghị Hội nghị không chỉ là diễn đàn giao thương, mà còn là bước đi chiến lược trong việc làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - Campuchia, đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng chung của cả hai quốc gia trong bối cảnh hội nhập khu vực và toàn cầu. Ông Đặng Văn Hợp, Giám đốc Công ty TNHH Mắc ca Đắk Lắk cho biết, thông qua hội nghị, doanh nghiệp đã nắm rõ hơn về nhu cầu hàng hóa của thị trường Campuchia, đồng thời kết nối được một số đơn vị kinh doanh có nhu cầu đặt hàng các sản phẩm mắc ca chất lượng cao, bao bì hấp dẫn của doanh nghiệp để phân phối rộng rãi tại Campuchia. Hội nghị góp phần thúc đẩy hợp tác chiến lược, mở rộng cơ hội kinh doanh Bên cạnh đó, ông Trương Ngọc Luân, Tổng giám đốc Công ty XNK Su Su Việt Nam nhận định, hội nghị đã điều kiện giá trị cho doanh nghiệp tiếp xúc được một số khách hàng tiềm năng ở một thị trường hoàn toàn mới đối với doanh nghiệp như Campuchia, từ đó mở ra những cơ hội xuất khẩu những mặt hàng có chất lượng, uy tín do công ty đang phân phối như các sản phẩm bảo vệ sức khỏe, làm đẹp cho mẹ và bé, hàng tiêu dùng... Trong khuôn khổ hội nghị, hàng trăm cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp giữa doanh nghiệp hai bên đã diễn ra sôi nổi, phản ánh nhu cầu kết nối đa dạng trong các lĩnh vực như dầu mỡ, phân bón, ắc quy, thiết bị điện, cơ khí, nhà thép tiền chế, nông sản, thực phẩm chế biến, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, dịch vụ logistics... Nhiều ý tưởng hợp tác, thoả thuận kinh doanh và định hướng dự án đầu tư đã được đặt nền móng, mở ra triển vọng hợp tác thực chất và lâu dài. Hội nghị góp phần khẳng định quyết tâm của hai Chính phủ trong việc tạo dựng môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, đẩy mạnh hợp tác thương mại - đầu tư và hiện thực hóa mục tiêu nâng cao kim ngạch thương mại song phương, hướng tới mức tăng trưởng bền vững, cân bằng và cùng có lợi.
Xem thêm
22/08/2025

Cục Xuất nhập khẩu hướng dẫn triển khai phân quyền, phân cấp trong cấp C/O

Cục Xuất nhập khẩu tổ chức hội nghị nhằm triển khai phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Tránh phát sinh vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ  Sáng 21/8, tại Hà Nội, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đã tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn triển khai phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực xuất xứ hàng hoá. Hội nghị được tổ chức nhằm hướng dẫn thực hiện Thông tư số 40/2025/TT-BCT ngày 22/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Công Thương, quy định về cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) và chấp thuận bằng văn bản cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu theo khoản 6, Điều 28, Nghị định số 146/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Sáng 21/8, Cục Xuất nhập khẩu tổ chức Hội nghị tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn triển khai phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực xuất xứ hàng hoá. Tại hội nghị, ông Nguyễn Anh Sơn - Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu đã phát biểu khai mạc và lưu ý việc đảm bảo khả thi, hiệu quả, tránh phát sinh vướng mắc khi triển khai thực hiện nhiệm vụ; đồng thời đảm bảo việc phân cấp, uỷ quyền theo đúng theo quy định tại Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Nguyên tắc phân cấp, phân quyền phù hợp với nguyên tắc quy định về phân định thẩm quyền phân quyền, phân cấp của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, pháp luật chuyên ngành về thương mại, quản lý ngoại thương; tạo điều kiện tiết giảm chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính. Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Nguyễn Anh Sơn phát biểu tại hội nghị Ông Sơn cũng cho biết, hiện Bộ Công Thương đang thực hiện cấp 30 thủ Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa C/O và REX. Thông tư 40/2025/TT-BCT có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2025 với thẩm quyền Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân tỉnh cấp C/O và Văn bản chấp thuận cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ. Để hỗ trợ địa phương, Cục đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể các địa phương. “Thông qua hội nghị lần này, tôi hy vọng Sở Công Thương các địa phương khu vực phía Bắc sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý, thủ tục để UBND tỉnh giao nhiệm vụ và thực hiện việc cấp C/O và văn bản chấp thuận thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa đảm bảo khả thi, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong bối cảnh tình hình mới”, ông Nguyễn Anh Sơn nhấn mạnh. Cần hoàn thiện cơ sở pháp lý, kiện toàn bộ máy nhân sự Cũng tại hội nghị, bà Trịnh Thị Thu Hiền - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu hướng dẫn cụ thể và lưu ý các nội dung chi tiết liên quan đến công tác tổ chức thực thi Thông tư số 40/2025/TT-BCT để địa phương triển khai nhiệm vụ cấp C/O và văn bản chấp thuận, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu cả nước. Bà Trịnh Thị Thu Hiền nhấn mạnh các địa phương cần quan tâm việc hoàn thiện cơ sở pháp lý, kiện toàn bộ máy nhân sự để thực hiện nhiệm vụ cấp C/O và văn bản chấp thuận. Ngoài ra, bà Hiền cũng đề nghị các địa phương bảo đảm hạ tầng số, nghiên cứu tài liệu phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực xuất xứ hàng hoá và liên hệ đúng đầu mối đối với từng nhóm vấn đề triển khai. Phó Cục trưởng Cục xuất nhập khẩu Trịnh Thị Thu Hiền hướng dẫn công tác tổ chức thực thi Thông tư số 40/2025/TT-BCT Bên cạnh đó, các đại diện Cục Xuất nhập khẩu và Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số đã trao đổi về: Phổ biến hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa; giới thiệu quy trình, nghiệp vụ thực hiện thẩm định, xét duyệt hồ sơ cấp C/O và văn bản chấp thuận tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa; trao đổi về việc kết nối hệ thống và giới thiệu thao tác trên Hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương; triển khai công tác phối hợp và phương án xử lý khó khăn, vướng mắc liên quan trong quá trình triển khai Thông tư số 40/2025/TT-BCT. Theo ông Đinh Tuấn Anh - Trưởng phòng, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, hiện nay, Hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử của Bộ Công Thương đã được tích hợp vào Cổng dịch vụ công Quốc gia. Ông Nguyễn Đình Đại - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Lạng Sơn phát biểu tại hội nghị Tại hội nghị, đại diện các Sở Công Thương khu vực miền Bắc trực tiếp trao đổi những vướng mắc phát sinh khi hoàn thiện cơ sở pháp lý và xây dựng kiện toàn cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đại diện Cục Xuất nhập khẩu và Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số trực tiếp giải đáp, hướng dẫn cụ thể cách thức triển khai đảm bảo công tác tổ chức thực hiện cấp C/O và văn bản chấp thuận thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hiệu lực, hiệu quả trong thời gian sớm nhất. Ông Nguyễn Đình Đại - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Lạng Sơn cho biết hiện nay, địa phương đang hoàn thiện quy trình ban hành văn bản để triển khai nhiệm vụ cấp C/O và văn bản chấp thuận tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Sau hội nghị, các Sở Công Thương địa phương đã xác định được nhóm nhiệm vụ cần ưu tiên triển khai nhằm thực thi phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa. Đại diện các Sở Công Thương đi thực tế tại Phòng Quản lý Xuất nhập khẩu Hà Nội Ngoài chương trình hướng dẫn tại hội nghị, đại diện các Sở Công Thương cũng được đưa đi thực tế tại Phòng Quản lý Xuất nhập khẩu Hà Nội, trực tiếp tham khảo cách thức triển khai cấp C/O và các thao tác nghiệp vụ trên Hệ thống quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ điện tử. Ngày 6/8/2025, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đã ban hành Quyết định số 146/QĐ-XNK về việc thành lập Đoàn công tác của Cục Xuất nhập khẩu đi làm việc tại địa phương để trao đổi, hướng dẫn và xử lý kiến nghị về các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực xuất xứ hàng hóa theo quy định tại Nghị định số 146/2025/NĐ-CP. Ngày 13/8/2025, Đoàn công tác đã làm việc với Sở Công Thương Bắc Ninh và giải đáp nhiều nội dung triển khai phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực xuất xứ hàng hóa.
Xem thêm

VIHAMARK - Chuẩn vị tự nhiên – Tự hào thương hiệu Việt

02/08/2025
Vihamark – Khẳng định vị thế thương hiệu nước giải khát Việt từ nguồn nguyên liệu tự nhiên Trong hành trình hội nhập và phát triển của ngành công nghiệp thực phẩm - đồ uống Việt Nam, Công ty Cổ phần Tập đoàn Vihamark đang dần định hình vị thế là một trong những doanh nghiệp tiên phong sản xuất nước giải khát thiên nhiên chất lượng cao, ứng dụng công nghệ hiện đại và khai thác tối đa giá trị từ nông sản bản địa. Với triết lý “Tự nhiên là chuẩn mực”, Vihamark không ngừng đổi mới để mang đến những sản phẩm tốt cho sức khỏe, gắn kết giữa con người – thiên nhiên – công nghệ một cách hài hòa và bền vững. Hành trình kiến tạo thương hiệu từ nền tảng giá trị thật Thành lập từ năm 2016, Vihamark khởi nguồn tại Khu công nghiệp Đồng Văn II (Hà Nam) với khát vọng trở thành thương hiệu giải khát Việt Nam tiêu biểu, sánh ngang cùng các thương hiệu khu vực. Không đi theo lối mòn của các dòng nước uống đóng chai đại trà, Vihamark lựa chọn hướng đi khác biệt: tập trung vào sản phẩm nước giải khát từ nguyên liệu tự nhiên, không chất bảo quản, hàm lượng dinh dưỡng cao và vị ngon thuần khiết. Trải qua gần một thập kỷ phát triển, Vihamark đã mở rộng hệ sinh thái sản phẩm với gần 30 dòng nước giải khát, từ nước trái cây, nước thảo dược đến nước yến, nha đam, dừa, mãng cầu, măng cụt... Tất cả đều được nghiên cứu và phát triển dựa trên tinh thần “thức uống lành, chuẩn vị tự nhiên”, đáp ứng thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng từ thành thị đến nông thôn, từ nội địa đến xuất khẩu. Công nghệ – Nhân sự – Quản trị: Ba trụ cột kiến tạo chất lượng Chất lượng sản phẩm của Vihamark là kết tinh của ba yếu tố: công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực tận tâm, và hệ thống quản lý khoa học. Tại nhà máy Vihamark đặt tại Hà Nam, công ty đầu tư đồng bộ dây chuyền sản xuất nhập khẩu từ Nhật Bản, áp dụng hệ thống quản lý an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn ISO 22000:2018. Mỗi công đoạn – từ chọn lọc nguyên liệu, xử lý, chiết rót, đóng gói – đều được kiểm soát nghiêm ngặt, đảm bảo không chỉ vị ngon mà còn sự an toàn tối đa cho người tiêu dùng. Đội ngũ nhân sự của Vihamark, với hơn 100 cán bộ công nhân viên, là những người trẻ năng động, yêu nghề và luôn đề cao tinh thần sáng tạo – chính trực. Văn hóa doanh nghiệp được xây dựng dựa trên nền tảng đề cao giá trị con người, khuyến khích học hỏi và gắn bó lâu dài, từ đó thúc đẩy năng suất và chất lượng lao động. Đa dạng sản phẩm – Định hình thị phần Nhận thức rõ vai trò của sự khác biệt trong xây dựng thương hiệu, Vihamark liên tục nghiên cứu và ra mắt các dòng sản phẩm mới, với điểm nhấn là các sản phẩm chứa thạch dừa, trái cây miền nhiệt đới, và nước yến chưng bổ dưỡng. Những sản phẩm như nước mãng cầu xiêm thạch dừa, nước măng cụt, nước nha đam mật ong, yến sào collagen, nước yến đường ăn kiêng… không chỉ gây ấn tượng bởi hương vị mà còn tạo dựng niềm tin về giá trị sức khỏe và sự tiện lợi. Đặc biệt, Vihamark xây dựng hệ thống thương hiệu mang tính phân khúc như: FPI 100 – Nước ép trái cây tươi nguyên chất Quà tặng từ thiên nhiên – Dòng sản phẩm quà biếu cao cấp Năng lượng bất tận – Dòng nước uống bổ sung năng lượng Chuẩn vị tự nhiên – Dòng nước giải khát truyền thống kết hợp hiện đại Thị trường rộng mở – Tầm nhìn toàn cầu Từ một nhà sản xuất nội địa, Vihamark đã phát triển hệ thống phân phối rộng khắp ba miền Việt Nam, với hàng ngàn điểm bán lẻ và đối tác chiến lược. Không dừng lại ở đó, sản phẩm của công ty đã có mặt tại nhiều thị trường quốc tế, phục vụ cộng đồng người Việt và khách hàng nước ngoài tại hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ. Định hướng đến năm 2030, Vihamark đặt mục tiêu trở thành top 5 thương hiệu nước giải khát tự nhiên được yêu thích nhất tại Đông Nam Á, đồng thời gia tăng sản lượng xuất khẩu gấp 3 lần hiện tại. Để hiện thực hóa điều đó, công ty đang tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, phát triển thêm nhà máy mới tại các tỉnh trọng điểm nông nghiệp, đồng thời số hóa hệ thống quản trị và bán hàng. Cam kết phát triển bền vững Không chỉ kinh doanh hiệu quả, Vihamark còn chú trọng đến trách nhiệm xã hội và phát triển bền vững. Từ việc thu mua nguyên liệu từ nông dân với giá ổn định, tham gia các chương trình hỗ trợ phát triển vùng trồng bền vững, cho đến các hoạt động thiện nguyện, tài trợ học bổng, bảo vệ môi trường – tất cả thể hiện triết lý kinh doanh nhân văn mà công ty theo đuổi. Vihamark không chỉ là một thương hiệu nước giải khát – mà là biểu tượng cho một triết lý sống khỏe, sống xanh, sống lành mạnh cùng thiên nhiên. Với nền tảng vững chắc và chiến lược rõ ràng, Tập đoàn Vihamark đang sẵn sàng cho hành trình bứt phá tiếp theo, đưa thương hiệu Việt vươn xa trên thị trường quốc tế.
Đọc thêm0

Yến sào FanZa – Khởi nguồn sức sống, kết nối niềm tin

09/07/2025
Yến sào FanZa là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực sản xuất, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm yến sào chất lượng cao tại Việt Nam. Với sứ mệnh “Mang tinh hoa yến Việt đến với mọi gia đình trên toàn thế giới”, FanZa không ngừng đầu tư vào công nghệ hiện đại, quy trình sản xuất khép kín và đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm nhằm đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng tối ưu, an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng. 🌿 Sản phẩm đa dạng, chất lượng vượt trội FanZa cung cấp đa dạng các dòng sản phẩm yến sào như: yến thô, yến tinh chế, yến chưng sẵn, yến chưng đường phèn, yến sào kết hợp thảo dược… Tất cả sản phẩm đều được chế biến từ nguồn yến tự nhiên khai thác tại các vùng yến nổi tiếng của Việt Nam, đảm bảo giữ trọn hàm lượng dinh dưỡng quý giá. 🏭 Nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế Nhà máy FanZa được xây dựng theo tiêu chuẩn hiện đại, đạt chứng nhận HACCP, ISO 22000, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm ở mức cao nhất. Mọi khâu từ tuyển chọn nguyên liệu, sơ chế, chế biến đến đóng gói đều được kiểm soát nghiêm ngặt bằng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. 🚀 Tầm nhìn - Sứ mệnh - Giá trị cốt lõi FanZa đặt mục tiêu trở thành thương hiệu yến sào hàng đầu khu vực Đông Nam Á, góp phần nâng tầm giá trị yến sào Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chúng tôi cam kết mang đến sản phẩm yến sào nguyên chất, an toàn, giàu dinh dưỡng cùng dịch vụ chuyên nghiệp, tận tâm. FanZa luôn đề cao các giá trị: Chất lượng – Uy tín – Sáng tạo – Phát triển bền vững. 🤝 Đối tác tin cậy FanZa đã và đang trở thành đối tác tin cậy của nhiều hệ thống phân phối, siêu thị, doanh nghiệp xuất khẩu tại các thị trường khó tính như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, và EU.
Đọc thêm0

Nguyên Hậu – Chất lượng song hành, phát triển bền vững

09/07/2025
Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Nguyên Hậu (Nguyen Hau Import Export Joint Stock Company) là một doanh nghiệp uy tín tại Đồng Tháp, chuyên sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp và thủy hải sản chế biến. Doanh nghiệp tự hào sở hữu hệ thống sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến và dây chuyền khép kín có chứng nhận quốc tế như ISO và HACCP, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng ổn định đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước  ✅ Sản phẩm đa dạng & phân phối toàn quốc 🔸 Bánh phồng tôm – đặc sản chủ lực Là sản phẩm mang dấu ấn của thương hiệu Nguyên Hậu, bánh phồng tôm được làm từ tôm tươi, bột năng và các gia vị truyền thống. Sản phẩm có nhiều kích cỡ, phù hợp với tiêu chuẩn nội địa và xuất khẩu, được ưa chuộng tại nhiều thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và EU. 🔸 Thực phẩm sơ chế & tiện lợi Bột gạo, bột năng, bột bắp, bột mì: phục vụ chế biến thực phẩm, làm bánh và gia dụng. Bún gạo khô, bánh tráng, bánh hỏi: sản phẩm truyền thống đóng gói tiện lợi, xuất khẩu mạnh sang châu Á và Bắc Mỹ. 🔸 Thủy hải sản đông lạnh Tôm sú, tôm thẻ, cá tra fillet: chế biến và cấp đông ngay tại xưởng đạt chuẩn HACCP. Các mặt hàng được kiểm định chất lượng nghiêm ngặt, đáp ứng tiêu chuẩn vệ sinh và truy xuất nguồn gốc rõ ràng. 🔸 Thực phẩm ăn liền – đóng gói Bánh gạo, bánh snack, bánh quy tôm, mì ăn liền... Phát triển theo định hướng tiện lợi – bổ dưỡng – phù hợp khẩu vị Á Đông. 🔸 Sản phẩm OEM & nhãn riêng Nguyên Hậu nhận gia công và sản xuất theo yêu cầu cho các đối tác trong và ngoài nước, cung cấp đầy đủ hồ sơ xuất khẩu, bao bì chuyên nghiệp và linh hoạt tùy thị trường. 🏭 Quy trình sản xuất – Kiểm soát chất lượng Từ khâu chọn lọc nguyên liệu đến chế biến và đóng gói, mọi công đoạn đều áp dụng quy trình sản xuất khép kín, tự động hóa và giám sát nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn ISO, HACCP. Nhờ vậy, sản phẩm luôn giữ chất lượng cao và an toàn tuyệt đối cho sức khỏe người tiêu dùng  🌍 Tầm nhìn và sứ mệnh Nguyen Hau xác định chất lượng là chiến lược tiếp cận thị trường và phát triển bền vững. Với mục tiêu trở thành doanh nghiệp chế biến thực phẩm hàng đầu tại Đồng Tháp và nằm trong TOP 10 công ty thực phẩm uy tín tại Việt Nam, công ty cam kết mang đến dòng sản phẩm tuyệt hảo – được người tiêu dùng tin tưởng trong nước và quốc tế
Đọc thêm0

Kén tằm Việt – Nâng tầm vẻ đẹp thuần khiết

09/07/2025
CÔNG TY TNHH KÉN TẰM VIỆT là đơn vị tiên phong tại Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm từ kén tằm tự nhiên. Chúng tôi kết hợp giữa nguồn nguyên liệu bản địa, kinh nghiệm truyền thống và quy trình hiện đại nhằm tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, thân thiện với môi trường và an toàn cho người sử dụng. Chúng tôi mong muốn nâng tầm giá trị nông sản Việt Nam thông qua những sản phẩm thiên nhiên chất lượng cao, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, cộng đồng và môi trường. Giá trị cốt lõi CÔNG TY TNHH KÉN TẰM VIỆT phát triển dựa trên 3 trụ cột: - Tự nhiên & An toàn: Nguyên liệu 100% từ kén tằm sạch, không tẩy trắng, không hóa chất Chất lượng & Quy chuẩn: Dây chuyền sản xuất kiểm soát nghiêm ngặt, tiêu chuẩn xuất khẩu - Bản sắc Việt: Kế thừa nghề trồng dâu nuôi tằm truyền thống của Việt Nam Ưu thế cạnh tranh - Nguồn nguyên liệu sạch, thu hoạch từ vùng nuôi tằm truyền thống Việt Nam - Đảm bảo 100% nguyên chất, không chất tẩy hay phụ gia - Quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn xuất khẩu Nhiều năm kinh nghiệm hợp tác quốc tế, đặc biệt với thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc Sản phẩm chính: - Kén tằm rút tơ dùng trong chăm sóc da và spa - Mặt nạ kén tằm thiên nhiên - Tơ tằm thô và sợi tơ tằm tự nhiên - Quà tặng sức khỏe và làm đẹp từ kén tằm
Đọc thêm0
Đọc thêm
popup

Số lượng:

Tổng tiền: